ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 25 TÁI LẬP TỈNH GẮN VỚI KỶ NIỆM 42 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG
NINH THUẬN (16/4/1975–16/4/2017), GIẢI PHÓNG MIỀN NAM,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975–30/4/2017)
_________
Phần thứ nhất
CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ VẺ VANG
I/ CHIẾN THẮNG 16-4-1975 - MỐC SON CHÓI LỌI TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN NINH THUẬN
1/ Diễn biến
Trong những năm 1973, 1974, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân ta ở miền Nam diễn ra sôi động. Tháng Giêng năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, mặc dầu đã bị thất bại nặng nề, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố theo đuổi âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới lên toàn bộ miền Nam nước ta. Chúng đã trắng trợn chà đạp hầu hết các điều khoản chủ yếu của Hiệp định, tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên quy mô lớn bằng các kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" và những cuộc hành quân "bình định" lấn chiếm vùng giải phóng, chồng chất muôn vàn tội ác đối với đồng bào ta.
Đánh giá đúng âm mưu của kẻ thù, Đảng ta nhận định rằng, bất kể trong tình huống nào, con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng phải là con đường bạo lực, kiên quyết dùng chiến tranh cách mạng đánh bại cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mỹ-ngụy.
Sau hai năm 1973, 1974 và nhất là từ chiến thắng giải phóng Phước Long (6-1-1975), cục diện chiến trường miền Nam đã thay đổi một cách căn bản, có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, tháng 10-1974 và đầu năm 1975, đã kịp thời đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử: “Cả năm 1975 là thời cơ... nếu thời cơ đến vào đầu năm hay cuối năm thì lập tức giải phóng miền Nam Việt Nam trong năm 1975”, và quyết định tổng tấn công, nổi dậy giải phóng miền Nam, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử–Mùa Xuân năm 1975.
Sau thất bại liên tiếp trên chiến trường Tây Nguyên và các tỉnh dọc Duyên hải miền Trung, Ngụy quyền Sài Gòn hoang mang cực độ, ra lệnh rút quân lui về co cụm, lập Bộ tư lệnh tiền phương, xây dựng “Tuyến phòng thủ từ xa” bảo vệ Sài Gòn, lấy Du Long-cách thị xã Phan Rang 30 km về phía Bắc làm nơi chốt chặn chủ yếu; quyết tử thủ ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Tại đây, địch tăng cường tập trung lực lượng, gồm Sư đoàn không quân số 6, 2 Trung đoàn và Tiểu đoàn bộ binh, 1 Liên đoàn biệt động quân, 2 chi đoàn xe tăng, 1 hạm đội ở ngoài khơi sẵn sàng chi viện. Với “Tuyến phòng thủ từ xa”, chúng hòng củng cố lại tinh thần binh lính sau hàng loạt thất bại thảm hại trên các chiến trường, ngăn chặn thế tiến công thần tốc của quân ta; bảo vệ từ xa bộ máy đầu não Ngụy quyền tại Sài Gòn trước nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn. Đứng trước thời cơ ngàn năm có một, ngày 31-3-1975, Bộ Chính Trị họp và quyết định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở Miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, thời cơ chiến lược để tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt địch đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta bắt đầu”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm : “Với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, với quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975, không thể để chậm”. Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Khu ủy và Quân khu 6 chỉ đạo Tỉnh uỷ Ninh Thuận: “Thời cơ đã đến, Tỉnh ủy Ninh Thuận phải phát huy mọi lực lượng ở đồng bằng và căn cứ, tiến ngay ra phía trước tấn công địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp, phá kềm, giải phóng quê hương”.
Sau khi tỉnh Khánh Hòa và Lâm Đồng được giải phóng, trong các ngày 1 đến 3-4-1975, các toán tàn quân ở Đà Lạt tháo chạy theo đường 11 về Phan Rang. Chớp thời cơ, ta mở các đợt công kích địch đánh chiếm các ấp ở Sông Mỹ; sau đó lần lượt đánh chiếm các ấp ven đường 11 từ Krông-Pha đến Đèo Cậu, giải phóng quận Krông-Pha. Mặc dù địch dùng nhiều máy bay kết hợp với xe tăng, pháo binh, bộ binh đánh phá ác liệt vào vùng căn cứ và vùng mới giải phóng, nhưng quân và dân Ninh Thuận vẫn kiên cường bám trụ, bẻ gãy tất cả đợt phản kích của địch. Được sự chỉ đạo của Quân khu 6, Tỉnh ủy Ninh Thuận chỉ đạo rút bộ đội địa phương của 2 huyện Bác Ái, Anh Dũng cùng một số đơn vị khác của tỉnh để bổ sung cho Tiểu đoàn 610, làm nhiệm vụ chốt giữ Đèo Cậu, chặn đánh địch từ sân bay Thành Sơn bung ra phản kích, bảo vệ quận Krông -Pha và sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ lực vào giải phóng Phan Rang.
Chiều ngày 7-4-1975, tại Tháp Chàm trong lúc tinh thần địch hoang mang rối loạn, lực lượng ta bung ra khống chế bọn tề điệp, ác ôn và dân vệ. Đến 19 giờ tối cùng ngày, lực lượng vũ trang thị xã và du kích mật tấn công Trại Nguyễn Hoàng, Ga Tháp Chàm, Cầu Móng, ngã ba Tháp Chàm và quận lỵ Bửu Sơn. Địch ở sân bay Thành Sơn tung lực lượng ra phản kích quyết liệt. Đại đội 311 được dân quân du kích và nhân dân Xóm Dừa giúp đỡ đã anh dũng chiến đấu suốt 2 ngày đêm trong lòng địch, đánh lui 16 đợt phản kích của chúng. Để đập tan tuyến phòng thủ từ xa của địch, đồng chí Thượng tướng Lê Trọng Tấn Tư lệnh cánh quân duyên hải quyết định sử dụng Sư đoàn 3 của Quân khu 5, Trung đoàn 25 Tây Nguyên và Quân khu 6, tăng cường 2 đại đội đặc công và công binh cùng với các lực lượng của Ninh Thuận chuẩn bị tấn công “Tuyến phòng thủ từ xa”. Tỉnh ủy Ninh Thuận hạ quyết tâm cao nhất, lãnh đạo bộ đội địa phương, dân quân du kích, nhân dân trong tỉnh phối hợp với các lực lượng chủ lực của Trung ương và Quân khu chi viện, vùng lên tấn công và nổi dậy đánh đổ chế độ Mỹ - Ngụy, giải phóng tỉnh nhà.
Sáng ngày 14-4-1975, tiếng pháo công kích của đại quân ta bắt đầu bắn vào điểm chốt của địch ở Bà Râu, Suối Đá, Kiền Kiền, Ba Tháp, Núi Đất và sân bay Thành Sơn. Đến 7 giờ sáng ngày 14-4-1975, Sư đoàn 3 bộ binh ta tấn công chiếm quận lỵ Du Long và các vị trí Bà Râu, Suối Vang, Suối Đá, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch tại đây; đồng thời bẻ gãy nhiều đợt phản công của chúng hòng giữ “Tuyến Phòng thủ từ xa”. Sáng ngày 16-4-1975, lệnh tấn công được phát ra. Lực lượng ta chia làm 3 mũi chính: Mũi thứ nhất có xe tăng dẫn đầu tiến theo đường Quốc lộ 1, sau khi đánh chiếm Phan Rang sẽ tiến lên sân bay Thành Sơn từ hướng Nam; Mũi thứ 2 từ hướng Tây Bắc đánh thẳng vào sân bay Thành Sơn; Mũi thứ 3 đánh chiếm cảng Ninh Chữ, không cho địch tháo chạy ra biển. Phối hợp với quân chủ lực, lực lượng 311 ở núi Cà Đú xuất kích, đánh tạt vào sườn quân địch đang tháo chạy. Ở hướng Tây Bắc, 2 đại đội đặc công và công binh Quân khu 6 phối hợp với lực lượng địa phương chọc thẳng xuống Phước Thiện, Ninh Quý, vượt qua Cầu Sắt vào khu vực Bảo An-Tháp Chàm. Trung tướng ngụy Nguyễn Vĩnh Nghi cho máy bay xuất kích 37 lần đánh vào Trung đoàn 101, nhưng đội hình của quân ta vẫn tiến nhanh về phía trước.
Đến 9 giờ 30 phút ngày 16-4-1975 cờ Mặt trận giải phóng tung bay trên đỉnh Toà hành chính - cơ quan đầu não ngụy quyền Ninh Thuận, đánh dấu tỉnh Ninh Thuận hoàn toàn giải phóng. Tuyến phòng thủ từ xa bảo vệ Sài Gòn bị đập tan đã tạo thế mở đường cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
2/ Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận:
Một là, Đảng bộ Ninh Thuận quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, đã huy động sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Hai là, nhờ nắm vững đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài; phát huy sức mạnh nhân tài, vật lực của địa phương là chính, đồng thời vận dụng có hiệu quả sự chi viện của Trung ương và các tỉnh trong cả nước.
Ba là, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, không ngừng xây dựng và củng cố phát triển lực lượng võ trang, phát triển chiến tranh du kích, liên tục tấn công địch, bảo vệ thành quả cách mạng, giành thắng lợi cuối cùng.
Bốn là, xây dựng căn cứ địa, tạo thế vững chắc để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài cho đến ngày giành thắng lợi.
Năm là, sự lãnh đạo chủ động, trực tiếp của Đảng bộ, giữ vững khối đoàn kết thống nhất trong Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
II/ CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH TOÀN THẮNG, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30-4-1975)
Từ sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên và Khu V, giải phóng ven biển miền Trung, ngụy quân, ngụy quyền tan rã từng mảng, hoang mang và hỗn loạn, lâm vào thế thất bại hoàn toàn không thể cứu vãn nổi, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 01-04-1975 kịp thời bổ sung thêm quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975; ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và miền Nam Việt Nam. Với khí thế quyết chiến, quyết thắng, tất cả vì chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam, quân và dân các tỉnh ven biển Cực Nam Trung bộ phối hợp chiến đấu cùng cánh quân duyên hải tiến quân thần tốc, vừa đi vừa đánh địch, giải phóng tỉnh Bình Thuận ngày 19 tháng 4, đến ngày 20 tháng 4 đại quân ta tiến tới Rừng lá, cách Xuân Lộc 20 km, khống chế cánh cửa phía Đông của quân ngụy Sài Gòn.
17 giờ ngày 26-4-1975, ta bắt đầu tiến công giải phóng thành phố Sài Gòn -Gia Định, lần lượt tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực ngụy, sau đợt tấn công cuối cùng, đến 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 cờ đỏ sao vàng lên nóc Dinh Độc Lập. Đây là thời điểm đánh dấu Thành phố Sài Gòn - Gia Định hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Ngày 30-4-1975 trở thành ngày Hội mừng chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Với thắng lợi vĩ đại này, nhân dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh với quy mô lớn nhất và ác liệt nhất của Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Đây là thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội trong thế kỷ XX, do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, là trang sử hào hùng và chói lọi chiến công của dân tộc Việt Nam trên con đường dựng nước và giữ nước. Có được thắng lợi như vậy xuất phát từ đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta kết hợp tài tình 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở 2 miền đất nước nhưng cùng nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện để đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội; với đường lối ấy, Đảng đã kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Chiến thắng 30-4-1975, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện được ước nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, Bắc -Nam sum họp một nhà.
Thắng lợi của Việt Nam đã củng cố niềm tin và cổ vũ sự nghiệp đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Nhân dân Lào và Campuchia đi đến toàn thắng, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Phần thứ hai
NINH THUẬN - 25 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN
I/ ĐẶC ĐIỂM NINH THUẬN
Ninh Thuận thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp biển Đông, với diện tích tự nhiên 3.358 km2, được bao bọc bởi ba mặt núi và một mặt biển. Là một tỉnh nằm ở vị trí trung điểm giao thông dọc theo Quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất và Quốc lộ 27 lên Tây Nguyên, có điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu về chính trị, kinh tế, văn hóa với các vùng miền trong cả nước và quốc tế. Dân số của tỉnh hiện nay gần 600 nghìn người, với 34 dân tộc cùng sinh sống, gồm 7 đơn vị hành chính (6 huyện, 1 thành phố), trong đó có 5 huyện, thành phố trải dài dọc theo bờ biển 105 km. Diện tích rừng và đất rừng chiếm trên 2/3 diện tích tự nhiên. Đặc biệt, Ninh Thuận còn được biết đến là miền đất phong phú về lịch sử văn hóa, là điểm hội tụ văn hóa tộc người Chăm và Raglai, còn lưu giữ, bảo tồn nhiều di tích lịch sử văn hóa Chăm được thể hiện qua nghệ thuật dân ca, múa Chăm, các làng nghề truyền thống và các công trình kiến trúc cổ Tháp Pô Klong Garai và Tháp Hòa Lai được nhà nước xếp hạng di tích cấp Quốc gia,... đó là những nét văn hóa mang đậm dấu ấn của vùng đất Ninh Thuận.
II/ NINH THUẬN TRƯỚC NGÀY TÁI LẬP TỈNH (1-4-1992)
Ngay từ khi tỉnh Ninh Thuận được giải phóng, đã nhanh chóng tiếp thu, tiếp quản các cơ sở; thành lập chính quyền cách mạng lâm thời các cấp, ban bố lệnh thiết quân luật để giữ gìn an ninh, trật tự, ổn định tình hình địa phương. Tháng 5-1975, tỉnh Ninh Thuận được sắp xếp lại gồm có 4 huyện và 1 thị xã (các huyện: Ninh Hải, An Phước, Ninh Sơn, Bác Ái và thị xã Phan Rang-Tháp Chàm). Tuy chiến tranh kết thúc nhưng đã để lại nhiều hậu quả nặng nề trên mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội; nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân ta lúc này là xây dựng lại quê hương, đất nước, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ninh Thuận thời kỳ này là một tỉnh thuần nông, điểm xuất phát nền kinh tế cũng như trình độ dân trí còn rất thấp; trật tự an ninh sau chiến tranh còn nhiều diễn biến phức tạp; bộ máy đảng, chính quyền, đoàn thể mới thành lập chưa ổn định, chưa có kinh nghiệm trong chỉ đạo, lãnh đạo quản lý. Để nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, Đảng bộ tập trung lãnh đạo quân và dân trong tỉnh ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất nhất là sản xuất lương thực, thực phẩm; tích cực xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa với tinh thần tích cực, khắc phục khó khăn và đã thu hút ngày càng đông người đến trường lớp; ngành y tế nhanh chóng đi vào hoạt động; lực lượng quân sự của tỉnh được quan tâm củng cố và phát triển...
Từ tháng 02 năm 1976 đến năm 1991, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy sáp nhập thành tỉnh Thuận Hải. Ninh Thuận là một phần ở phía Bắc tỉnh Thuận hải. Thực hiện đường lối đổi mới theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực khắc phục khó khăn, bước đầu tạo một số chuyển biến quan trọng trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Năng lực sản xuất được giải phóng, nguồn vốn trong nhân dân được huy động đầu tư mở rộng sản xuất. Nhìn chung sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đều có bước phát triển mới, kinh tế nhiều thành phần phát triển đa dạng. Đời sống nhân dân được cải thiện một bước, nhất là ở vùng đồng bằng; công tác xây dựng Đảng được tăng cường, quốc phòng – an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tính đến cuối năm 1991, tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn Ninh Thuận đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đáng phấn khởi. Tổng sản phẩm xã hội tăng 7,7%, trong đó ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 23,8%, nông nghiệp 63,4%, thu nhập quốc dân tăng 7,9% so với năm 1990. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 112.112 tấn, bình quân 274 kg trên đầu người. Kim ngạch xấu khẩu đạt 3,795 triệu USD, thu ngân sách 20,3 tỷ đồng. Các sản phẩm thiết yếu về lương thực, thực phẩm và một số mặt hàng tiêu dùng căn bản đáp ứng nhu cầu tại chỗ, thị trường ngoài tỉnh và xuất khẩu. Đây chính là tiền đề cho bước phát triển trong giai đoạn tiếp theo của Ninh Thuận.
Theo đề nghị của Ban Chấp hành Đảng bộ và HĐND tỉnh Thuận Hải, tại kỳ họp thứ 10 ngày 26-12-1991, Quốc hội khóa VIII đã quyết định tách tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ ngày 01-4-1992 tỉnh Ninh Thuận được tái lập và chính thức đi vào hoạt động; có 4 đơn vị hành chính, gồm: thị xã Phan Rang-Tháp Chàm, huyện Ninh Sơn, Ninh Hải và Ninh Phước.
III/ NHỮNG THÀNH TỰU QUA 25 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
1/ Giai đoạn 1992-1995: Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm; tháng 10 năm 1992 Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII đã xác định phương hướng, mục tiêu phát triển là: Phát huy tối đa các lợi thế của tỉnh, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, động viên lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân, sử dụng có hiệu quả liên doanh hợp tác, sự giúp đỡ của Trung ương để đẩy nhanh nhịp độ phát triển tiến kịp với yêu cầu cả nước và các tỉnh bạn. Ra sức xây dựng kinh tế, đồng thời chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị.
Sau 4 năm tổ chức triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng bộ tỉnh. Với tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận đã nỗ lực khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi, giành được nhiều kết quả đáng khích lệ. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá và phát triển tương đối toàn diện, đi dần vào thế ổn định. Tổng sản phẩm xã hội trong tỉnh (GDP) tăng liên tục, bình quân hàng năm đạt 8,8% (mục tiêu là 7%), nâng thu nhập bình quân đầu người lên 2,25 triệu đồng.
Văn hóa – xã hội từng bước chuyển biến tích cực; cơ sở vật chất của các ngành phát thanh truyền hình, văn hóa, thể dục – thể thao được tăng cường. Hàng năm giải quyết việc làm cho 4.000 lao động, hộ khá tăng lên, giảm hộ nghèo. Lĩnh vực giáo dục – đào tạo có nhiều đổi mới và đạt những kết quả đáng khích lệ. Hoạt động khoa học – công nghệ bước đầu ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật phục vụ các chương trình kinh tế, dân sinh. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân chuyển biến khá, chất lượng khám và chữa bệnh có tiến bộ. Hệ thống cơ sở vật chất ngành y tế trong toàn tỉnh được nâng cấp, kể cả trang thiết bị. Quốc phòng – an ninh được tăng cường và củng cố, chính trị ổn định. Công tác xây dựng Đảng được chăm lo, hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố và kiện toàn từng bước.
2/ Giai đoạn 1996-2000: Phát huy kết quả đạt được, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới và bước đầu tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt được những kết quả tương đối toàn diện và đồng đều trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội và hoàn thành chỉ tiêu quan trọng mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra.
Nền kinh tế tiếp tục phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, tạo thêm năng lực sản xuất mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 6,2%; GDP bình quân đầu người đạt 3.260.000 đồng, tăng gần 1,5 lần so với năm 1995. Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp tăng bình quân 4,7%. Giá trị sản xuất thủy sản tăng bình quân 12,7%, sản lượng tăng 11.500 tấn, trong đó tỷ trọng nuôi trồng tăng 40% trong tổng giá trị toàn ngành; năng lực khai thác hải sản tăng 102%; hình thành 2 vùng sản xuất tôm thịt tại Đầm Nại và Phú Thọ. Đã định hình 3 trung tâm sản xuất tôm giống tại Văn Hải, An Hải, Khánh Hội, trở thành vùng sản xuất tôm giống lớn của cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 11,5%, chiếm 13,5% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển đa dạng. Giá trị kim ngạch xuất khẩu qua 5 năm đạt 37 triệu USD. Tổng mức mua bán hàng hóa và dịch vụ tăng 7,7 lần. Năng lực sản xuất mới tăng thêm cả ở khu vực nhà nước và dân doanh, tạo thế phát triển cho những năm sau.
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành mục tiêu quốc gia về xóa mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học; nâng cấp trường Sư phạm thành trường Cao đẳng Sư phạm. 100% xã phát động xây dựng Làng văn hóa; phát thanh - truyền hình phủ sóng 98-100% số xã. Hoạt động khoa học công nghệ đã hướng dẫn việc triển khai ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống; tham mưu tư vấn và xây dựng các luận chứng phát triển kinh tế - xã hội. Công tác xã hội hóa y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú ý. Hàng năm giải quyết việc làm cho 7.000-8.000 người. Kinh tế xã hội miền núi có chuyển biến về nhiều mặt. Điện, đường, trường, trạm, công trình thủy lợi đầu tư nhiều hơn trước, tạo được sự phát triển sản xuất và nâng cao dân trí. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc miền núi được cải thiện.
Quốc phòng - an ninh được giữ vững, tình hình chính trị xã hội ổn định. Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần NQTW6 (lần 2) tạo chuyển biến bước đầu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng ứng. Chính quyền các cấp thực hiện cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành, gắn với phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Công tác vận động quần chúng có nhiều chuyển biến tiến bộ, đổi mới về nội dung và phương thức. Khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng, tạo sự thống nhất về chính trị và đồng thuận trong nhân dân.
3/ Giai đoạn 2001-2005: Nỗ lực thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bước đầu khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh đạt hiệu quả.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đề ra nhiệm vụ, mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005): Đưa nền kinh tế tỉnh nhà phát triển theo hướng phát huy lợi thế, gắn với thị trường và đi vào chất lượng, tạo nhịp độ tăng trưởng khá và bền vững, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ, đẩy nhanh tiến trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh. Tăng cường chất lượng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng thêm năng lực sản xuất mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề cho bước phát triển tiếp theo. Giảm nhanh hộ nghèo, ổn định cải thiện mức sống nhân dân. Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị - xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh.
Năm năm đầu của thế kỷ XXI, tuy điều kiện thời tiết khắc nghiệt, liên tiếp bị lũ lụt, hạn hán ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống nhân dân, nhưng với nỗ lực và quyết tâm cao, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu do Đại hội X Đảng bộ tỉnh đề ra. Nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá, GDP bình quân mỗi năm tăng 8,2%; cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP từ 52,1% (năm 2000) giảm xuống còn 40,9% (năm 2005); công nghiệp, dịch vụ từ 47,9% (năm 2000) tăng lên 59,1% (năm 2005); thu nhập bình quân đầu người tuy còn thấp nhưng cũng tăng 1,6 lần, từ 2,94 triệu đồng lên 4,68 triệu đồng (năm 2005). Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi được quan tâm đầu tư, xây dựng. Tiềm năng, lợi thế các vùng kinh tế bước đầu được phát huy. Những mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả, phát triển bền vững, xuất hiện ngày càng nhiều.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực: quy mô chất lượng giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân đều tăng lên; giáo dục ở miền núi, dạy học chữ Chăm, chữ Raglai cho con em đồng bào dân tộc được quan tâm. Các chương trình mục tiêu thực hiện có hiệu quả; giải quyết tốt hơn các vấn đề bức xúc của xã hội; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể, văn hóa truyền thống của các dân tộc được gìn giữ và phát huy, tạo nên không khí phấn khởi, đoàn kết trong đồng bào các dân tộc tỉnh nhà. Quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị từng bước đi vào chiều sâu; chính quyền các cấp được củng cố; phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới; công tác vận động quần chúng tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện tốt hơn; hiệu lực quản lý và điều hành nhà nước có chuyển biến tích cực.
4/ Giai đoạn 2006-2010: Phát huy truyền thống đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh đã đề ra: “Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế cả về quy mô và chất lượng. Xác định kinh tế biển là mũi nhọn; phát triển công nghiệp chế biến, du lịch là động lực cho sự phát triển; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, nông nghiệp. Đến năm 2010, giá trị tổng sản phẩm nội tỉnh tăng 1,8 - 2 lần; GDP bình quân đầu người đạt 2,1 lần so với năm 2005, đưa tỉnh ta bước vào giai đoạn phát triển nhanh và bền vững”.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước bình quân đạt 8,2%/năm (GDP năm 2010 đạt 10,4%); quy mô nền kinh tế tăng gần 4,4%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 50% (năm 2010 đạt 50 triệu USD); tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 34%/năm; thu nhập bình quân đầu người đạt 11,7 triệu đồng.
Nông nghiệp liên tục được mùa, phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nhanh cây, con có giá trị kinh tế cao. Thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ để nông nghiệp, nông thôn và nông dân đẩy mạnh sản xuất; nhiều nghề truyền thống và các loại hình dịch vụ trong nông thôn được khuyến khích phát triển. Tổng vốn đầu tư trên 2.200 tỷ đồng, chủ yếu tập trung đầu tư thủy lợi để phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và đảm bảo an sinh xã hội.
Công nghiệp-xây dựng phát triển nhanh, giá trị ngành công nghiệp tăng bình quân 17,9% so với khi tỉnh mới tái lập, cơ cấu nội bộ ngành có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng đô thị, cụm dân cư nông thôn có chuyển biến tích cực. Chủ động xây dựng các dự án, thu hút các nguồn vốn ODA, ADB để đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị. Bộ mặt đô thị, điểm dân cư tập trung trên địa bàn tỉnh có nhiều đổi mới khang trang, sạch đẹp. Tích cực triển khai chủ trương hợp tác phát triển với các tỉnh lân cận và thành phố Hồ Chí Minh, các công ty, tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước. Công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư được quan tâm, môi trường đầu tư của tỉnh tiếp tục cải thiện theo hướng tích cực; khu vực kinh tế tư nhân tăng bình quân 11,5%/năm, đóng góp 67,8% GDP và 50% thu ngân sách của tỉnh, giải quyết việc làm cho trên 40.000 lao động (tăng gấp 7 lần so với năm 1995).
Văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến, tiến bộ. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, y tế tiếp tục phát triển đảm bảo cân đối về quy mô, loại hình và nâng cao chất lượng. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đặc biệt, năm 2007 Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận vinh dự đón nhận Huân chương lao động hạng Ba của Chủ tịch nước trao tặng; thị xã Phan Rang-Tháp Chàm được Chính phủ ra Quyết định công nhận lên đô thị loại 3, là thành phố trực thuộc tỉnh.
Quốc phòng – an ninh được củng cố, tăng cường, xây dựng lực lượng chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền được nâng lên, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên luôn được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, có nhiều đổi mới, tạo được sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong nhân dân trước sự lãnh đạo của Đảng về đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước, của tỉnh. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả bước đầu, xuất hiện nhiều điển hình trong phong trào “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác, góp phần khắc phục, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một số cán bộ, đảng viên.
5/ Giai đoạn 2011-2015, Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận đoàn kết, nỗ lực thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đề ra, đó là: Phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, huy động hiệu quả các nguồn lực để khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh nhằm thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tập trung nâng cao dân trí, bảo đảm quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh trong sạch, vững mạnh; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nền kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển khá, một số ngành, lĩnh vực phát triển nhanh và tăng trưởng cao hơn giai đoạn trước.Tổng sản phẩm nội tỉnh tăng bình quân 11,2%/năm; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2,45 lần so năm 2010. Thu ngân sách đạt 1.800 tỷ đồng, tăng gấp 2,03 lần. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 33.155 tỷ đồng, bằng 1,95 lần so giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp từ 41,9% xuống còn 36,3% so với năm 2010. Tạo việc làm mới cho 79 nghìn lao động; lao động qua đào tạo đạt 50,4%; giảm hộ nghèo từ 15,48% năm 2010 xuống còn 5,73% vào năm 2015. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%. Huy động nhiều nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi và hạ tầng đô thị, triển khai xây dựng thành phố Phan Rang-Tháp chàm đạt tiêu chí đô thị loại II. Kinh tế biển, hợp tác phát triển với các tỉnh, khu vực không ngừng mở rộng, công tác quảng bá tiềm năng, lợi thế Ninh Thuận có chuyển biến tích cực. Công tác quản lý tài nguyên môi trường, kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường, môi trường đầu tư tiếp tục cải thiện.
Công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được quan tâm chỉ đạo, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Các chính sách xã hội và an sinh xã hội được chăm lo ngày càng tốt hơn; đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, nhất là vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện. Mạng lưới y tế được củng cố, chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân và phòng chống dịch bệnh tốt hơn.
Nhiệm vụ quốc phòng - an ninh được quán triệt, triển khai toàn diện và đạt hiệu quả; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác cải cách tư pháp thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham nhũng, lãng phí được quan tâm chỉ đạo, đạt kết quả tích cực.Công tác xây dựng Ðảng, hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Ðảng, tổ chức cơ sở đảng được nâng lên, đoàn kết thống nhất trong Ðảng được tăng cường. Công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị có nhiều chuyển biến tiến bộ. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thực sự có chuyển biến. Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) với quyết tâm chính trị cao, cán bộ, đảng viên đồng tình, bước đầu khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường góp phần ngăn chặn, hạn chế những sai phạm.Công tác dân vận của Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của Mặt trận, đoàn thể chính trị, hội quần chúng có bước đổi mới, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và phát huy; các nguyện vọng chính đáng của Nhân dân được quan tâm giải quyết.
6/ Sau 25 năm tái lập, tỉnh Ninh Thuận đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định và nâng cao vị thế của tỉnh so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, tạo tiền đề đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ninh Thuận được tái lập từ một tỉnh có xuất phát điểm về kinh tế - xã hội còn thấp, là tỉnh thuần nông với phần lớn diện tích là trung du và miền núi, các ngành công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển, số lượng doanh nghiệp ít và hầu hết có công nghệ rất lạc hậu, năng suất và hiệu quả kinh tế thấp, đời sống đại bộ phận người dân, nhất là vùng dân tộc miền núi còn rất nhiều khó khăn. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ cấp tỉnh mới hình thành chưa đồng bộ, vừa thiếu, vừa yếu. Song, với quyết tâm chính trị cao trong chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; sự năng động, sáng tạo trong công tác điều hành của các cấp chính quyền và sự đoàn kết, đồng lòng vượt khó và ý chí vươn lên của nhân dân trong tỉnh, từng bước khai thác hiệu quả các tiềm năng, phát huy lợi thế, tranh thủ mọi sự hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương, các nguồn lực trong và ngoài tỉnh để xây dựng và phát triển.
Nền kinh tế của tỉnh đã có sự thay đổi mạnh mẽ, tốc độ kinh tế qua từng giai đoạn luôn đạt ở mức cao; đặc biệt có năm tăng trưởng kinh tế đạt trên 14,2% là tiền đề để Ninh Thuận hướng đến mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân giai đoạn 1992-2016 ước đạt 8,8%/năm, trong đó: ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,4%/năm; ngành công nghiệp – xây dựng tăng 12,7%/năm và ngành dịch vụ tăng 10,2%/năm. Quy mô giá trị tăng thêm (theo giá hiện hành) tăng 31,2 lần từ 585,7 tỷ đồng năm 1992 lên 18.209 tỷ đồng năm 2016. Giá trị GRDP bình quân đầu người liên tục tăng, năm 1995 mới chỉ đạt 1,37 triệu đồng/người, đến năm 2016 đạt 30,3 triệu đồng/người, tăng 22,1 lần. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch khá, đúng hướng, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng 4,6 %, từ 15,8% năm 1992 lên 20,4% vào năm 2016; khu vực dịch vụ chuyển dịch nhanh, tăng 11,6%, từ 29,4% năm 1992 lên 41% vào năm 2016 và ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm 16,2%, từ 54,8% năm 1992 xuống còn 38,6% năm 2016. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được triển khai mạnh mẽ, tỷ trọng khu vực vốn nhà nước giảm từ 20,7% xuống còn 12,4% và khu vực vốn ngoài nhà nước tăng từ 79% lên 83,9% vào năm 2016.
Sản xuất nông nghiệp của tỉnh ngày càng đa dạng về cơ cấu sản phẩm và loại hình tổ chức. Thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu; tỉnh đã tập trung chỉ đạo, triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện có hiệu quả chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển những cây trồng có năng suất, chất lượng cao, trở thành đặc sản của địa phương như nho, táo, mía, hành, tỏi và hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày phục vụ chế biến mì, mía (huyện Ninh Sơn và Bác Ái); nho, táo (huyện Ninh Phước và thành phố Phan Rang - Tháp Chàm); đồng thời phát huy hiệu quả các công trình thủy lợi đã đầu tư, nhiều mô hình mới có hiệu quả trong sản xuất được nhân rộng, đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển tăng trên cả 3 mặt: diện tích, năng suất và giá trị sản xuất/ha đất. Diện tích gieo trồng tăng bình quân 2,2%/năm; trong đó năng suất cây lương thực có hạt tăng 2,2%; năng suất lúa tăng từ 37,3 tạ/ha năm 1992, lên 60 tạ/ha năm 2016; thu nhập trên ha đất canh tác tăng từ 57 triệu đồng năm 2010 lên 105 triệu đồng năm 2016. Chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh cả về chất và lượng, đang từng bước khẳng định là ngành sản xuất chính, đem lại giá trị thu nhập cao cho nông dân trong tỉnh. Tổng sản lượng thịt hơi các loại tăng từ 4.927 tấn năm 1992 lên 21.423 tấn năm 2016. Sản xuất thủy sản tiếp tục giữ được ổn định và phát triển, giá trị sản xuất toàn ngành giai đoạn 1992-2016 tăng 10,2%/năm. So với năm 1992, tổng diện tích nuôi trồng tăng từ 422 ha lên 1.067 ha; tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng từ 633 tấn lên 8.120 tấn. Chủ trương xây dựng Ninh Thuận thành trung tâm sản xuất giống thủy sản có chất lượng cao của cả nước thực hiện có kết quả, đạt được mục tiêu và phát huy được lợi thế. Năng lực tàu thuyền tăng khá, sản lượng đánh bắt tăng bình quân hàng năm 8,2% (năm 1992 đạt 12.650 tấn, năm 2016 đạt 83.800 tấn); hạ tầng nghề cá tiếp tục được đầu tư nâng cấp, mở rộng như: cảng Đông Hải, Ninh Chữ, Cà Ná, Trung tâm giống hải sản…
Ngành công nghiệp tăng trưởng khá (giá trị sản xuất theo giá so sánh 2010 tăng bình quân 14%/năm). Xuyên suốt 6 kỳ Đại hội, Đảng bộ tỉnh đều chủ trương phát huy lợi thế, tập trung phát triển công nghiệp chế biến, xác định phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm để có sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Tại Đại hội X xác định: Tập trung phát triển công nghiệp chế biến thành ngành mũi nhọn; Đại hội XII, tư duy đổi mới về phát triển công nghiệp đã được nâng lên tầm cao mới: Khâu đột phá là phát triển các ngành công nghiệp chế biến có lợi thế của địa phương, đồng thời xác định phát triển công nghiệp năng lượng là động lực bức phá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đến Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng theo hướng hội nhập, thân thiện môi trường và tiết kiệm năng lượng. Trong những năm gần đây, lĩnh vực năng lượng được tỉnh quan tâm chỉ đạo, đầu tư hoàn thành 6 nhà máy thủy điện, với tổng công suất 190,9MW; kêu gọi đầu tư 13 dự án điện gió/1.072 MW; khảo sát 39 dự án điện mặt trời/8.607,8 MW. Hình thành và quy hoạch 4 Khu công nghiệp và 4 Cụm công nghiệp, với tổng diện tích trên 1.830 ha, trong đó có 3 Khu, Cụm Công nghiệp đi vào hoạt động, thu hút 19 dự án, tạo việc làm ổn định trên 3.200 lao động. Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp được khuyến khích và hỗ trợ phát triển; xây dựng nhiều mô hình làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch, góp phần bảo tồn nền văn hóa dân tộc (gốm Bàu Trúc, dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp và Chung Mỹ, dệt chiếu cói An Thạnh...), đồng thời duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống có lợi thế của tỉnh (nước mắm, rượu nho, thủy sản...), giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động ở nông thôn.
Các lĩnh vực dịch vụ, kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, chất lượng các dịch vụ được nâng lên. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và kinh doanh dịch vụ giai đoạn 1992-2016 tăng bình quân 16%/năm, trong đó năm 2016 đạt 15.731 tỷ đồng, tăng 35 lần so với năm 1992. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao, năm 2016 đạt 80,2 triệu USD, tăng 47,2 lần so với năm 1992, đưa mức tăng bình quân giai đoạn 1992-2016 đạt 17,4%/năm, chủ yếu là những sản phẩm xuất khẩu truyền thống nông sản, thủy sản. Tập trung tổ chức các hoạt động quảng bá, xúc tiến, kêu gọi đầu tư khai thác tiềm năng, lợi thế du lịch theo quy hoạch và đã thu hút được một lượng lớn khách trong nước cũng như nước ngoài đến thăm quan tại tỉnh, doanh thu từ các hoạt động du lịch tăng từ 33,55 tỷ đồng năm 1996 lên 750 tỷ đồng năm 2016.
Hoạt động bưu chính - viễn thông tiếp tục phát triển, chất lượng cải thiện tốt hơn, đã phát triển thêm nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông cùng hoạt động tạo ra sự đa dạng về hình thức phục vụ. Tổng doanh thu các dịch vụ bưu chính viễn thông tăng bình quân 30,2%/năm, năm 1992 đạt 0,88 tỷ đồng đến năm 2016 đạt 499,533 tỷ đồng; số lượng thuê bao viễn thông tăng bình quân 18,1%/năm.
Các dịch vụ tài chính, tín dụng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Năm 1992 trên địa bàn tỉnh chỉ có 02 chi nhánh Ngân hàng thương mại Nhà nước, đến nay mạng lưới tổ chức tín dụng, ngân hàng đã nâng lên 35 chi nhánh, phòng giao dịch và 03 Quỹ tín dụng. Công tác huy động vốn được các ngân hàng và tổ chức tín dụng thực hiện tốt, năm 2016 tổng vốn huy động đạt 9.050 tỷ đồng, tăng gần 559 lần so với năm 1992. Bên cạnh đó, các chính sách tín dụng được quan tâm thực hiện tốt, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, ưu tiên bảo đảm vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng bình quân 18,8%/năm; thu ngân sách từ 33,3 tỷ đồng vào năm 1992 đã tăng lên 2.088 tỷ đồng vào năm 2016, tăng gấp 62,7 lần so với năm 1992. Công tác quản lý chi ngân sách được tăng cường, kiểm soát chi chặt chẽ, quản lý chi theo dự toán, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đảm bảo và phục vụ kịp thời nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó đặc biệt là chi đầu tư phát triển và chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chính sách an sinh xã hội,... tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như phát triển nguồn nhân lực đáp ứng các nhu cầu phát triển. Hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư của tỉnh tăng cao, năm 1994 toàn tỉnh chỉ có 01 dự án FDI với tổng vốn 24,5 tỷ đồng; đến nay đã thu hút được 292 dự án, gồm 30 dự án FDI (bao gồm 04 chi nhánh) với số vốn đăng ký 16.127 và 262 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 43.719,1 tỷ đồng, trong đó có 173 dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ lệ 59,2%. Công tác vận động thu hút các dự án ODA luôn được chỉ đạo quyết liệt và đạt được nhiều kết quả quan trọng, đã góp phần bổ sung vào nguồn vốn đầu tư phát triển của tỉnh nhằm thực hiện các mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng hạ tầng kỹ thuật của tỉnh phục vụ thu hút đầu tư và nâng cao đời sống nhân dân, giảm ô nhiễm môi trường.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, an sinh xã hội được đảm bảo, phát triển kinh tế - xã hội miền núi được quan tâm đầu tư và có bước phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, nâng cao. Cơ sở vật chất trường học, bệnh viện, các khu vui chơi, văn hóa thể thao, trụ sở các cơ quan quản lý nhà nước được đầu tư, cải tạo, nâng cấp khang trang; quốc phòng - an ninh được giữ vững, chính trị, xã hội ổn định. Công tác xây dựng Ðảng, hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng được nâng lên, đoàn kết, thống nhất trong Ðảng được tăng cường. Công tác tư tưởng, giáo dục lý luận chính trị có nhiều chuyển biến tiến bộ. Vai trò lãnh đạo của đa số tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thực sự có chuyển biến; bước đầu khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng.
IV/ NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1/ Những khó khăn, hạn chế
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế sau một thời gian duy trì ở mức cao, đang có xu hướng chững lại, tiềm ẩn nhiều yếu tố chưa vững chắc, còn lệ thuộc nhiều vào thời tiết, chưa khai thác hết hiệu quả ngành kinh tế mũi nhọn và những lĩnh vực có thế mạnh của tỉnh; chưa có sự đột phá trong công nghiệp để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Sản xuất nông nghiệp phần lớn có quy mô sản xuất nhỏ; công tác ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn chậm, năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm nông nghiệp còn thấp; doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao còn ít.
- Các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ còn thiếu. Một số làng nghề tiểu thủ công nghiệp còn chậm phát triển. Hầu hết các cơ sở tiểu thủ công nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ lẻ dưới dạng hộ gia đình, thiếu vốn, thiếu mặt bằng sản xuất.
- Ngành du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Dịch vụ chất lượng cao còn thiếu, các dịch vụ phụ trợ, các cơ sở vui chơi giải trí, kinh doanh dịch vụ chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là những dịch vụ phục vụ trực tiếp con người.
- Thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, không có nguồn thu chủ lực, phụ thuộc vào sự hỗ trợ vào ngân sách Trung ương ngày càng lớn.
- Trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước có một số dự án đầu tư còn thiếu đồng bộ, nhiều dự án đầu tư kéo dài nên phát huy hiệu quả thấp.
- Các doanh nghiệp trong nước tuy phát triển khá nhanh, nhưng chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa, trình độ công nghệ, khả năng về tài chính, giải quyết lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu chưa nhiều.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật tuy phát triển khá nhanh, nhưng chưa đáp ứng so với yêu cầu phát triển, nhất là ở những miền núi, vùng sâu, vùng xa. Một số công trình chậm hoàn thành, đầu tư chưa được đồng bộ, chất lượng và chưa phát huy hết hiệu quả sử dụng.
- Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng có thời điểm gặp khó khăn, vướng mắc kéo dài nên một số dự án quy mô lớn chậm triển khai hoặc đầu tư không đúng tiến độ.
- Chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
- Tình trạng quá tải trong một số bệnh viện tuyến tỉnh có thời điểm vẫn xảy ra. Cở sở vật chất, trang thiết bị, năng lực, chất lượng, hiệu quả khám chữa bệnh còn hạn chế so với yêu cầu.
- Phong trào thực hiện nếp sống văn hóa ở một số nơi chưa tốt. Mức thụ hưởng văn hóa của người dân ở nhiều nơi còn chưa cao. Xây dựng thiết chế văn hóa cấp huyện, cấp xã chưa đồng bộ. Một số thiết chế văn hóa - thể thao nhất là ở cấp thôn chưa được khai thác hiệu quả.
2/ Bài học kinh nghiệm qua 25 năm xây dựng và phát triển
Một là, Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, Nghị quyết của Đảng, tập trung trí tuệ vận dụng sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của địa phương, đề ra những chính sách, giải pháp đúng đắn, sát thực tiễn, hợp lòng dân, kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện.
Hai là, thường xuyên chăm lo công tác tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở; luôn coi trọng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp.
Ba là, luôn coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng, đồng thời biết chọn khâu đột phá để tập trung chỉ đạo thực hiện mục tiêu đề ra.
Bốn là, chú trọng công tác vận động quần chúng, phát huy truyền thống yêu nước, yêu quê hương và sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc anh em trong tỉnh để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng.
Năm là, phát huy các lợi thế, khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tập trung đầu tư phát triển theo quy hoạch và kế hoạch; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, nhạy bén với cái mới, năng động trong cơ chế thị trường, đẩy mạnh phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và dân chủ trong nhân dân.
V/ PHÁT HUY TINH THẦN CHIẾN THẮNG 16-4-1975 VÀ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC QUA 25 NĂM TÁI LẬP TỈNH; TIẾP TỤC THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG NINH THUẬN NGÀY CÀNG VĂN MINH, GIÀU ĐẸP
1/ Từ khi có Đảng lãnh đạo, cộng đồng các dân tộc trong tỉnh đã không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết, đấu tranh kiên cường, viết lên trang sử hào hùng của Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong điều kiện vô cùng khó khăn, nhưng bằng ý chí cách mạng, với tinh thần tự lực tự cường, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã chiến đấu anh dũng giành thắng lợi to lớn. Ngày 16 tháng 4 năm 1975 Ninh Thuận được giải phóng, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, Ninh Thuận cùng với cả nước bước vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Qua 42 năm xây dựng và bảo vệ quê hương (1975-2017), Đảng bộ đã biết tận dụng, phát huy sức mạnh của các nguồn lực để lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh; nhất là những thành tựu đã đạt được qua 20 năm tái lập tỉnh... Đây chính là cơ sở, là tiền đề, là động lực thúc đẩy chúng ta thêm sức mạnh, niềm tin mới, quyết tâm phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII (2015 – 2020) của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
2/ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ tỉnh đã xác định mục tiêu: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy truyền thống đoàn kết; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, kinh tế biển là động lực, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, sớm thu hẹp khoảng cách thu nhập so với bình quân cả nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Giai đoạn 2016-2020: Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP theo giá so sánh năm 2010) tăng 10 - 11%/năm. Thu nhập bình quân đầu người vào năm 2020 đạt 58-60 triệu đồng/người. Cơ cấu kinh tế: Nông - lâm - thủy sản chiếm 28-29%; công nghiệp - xây dựng chiếm 30-31%; dịch vụ chiếm 39-40% GRDP vào năm 2020. Tổng thu ngân sách trên địa bàn đến năm 2020 đạt 2.800-3.000 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 đạt 51 - 55 nghìn tỷ đồng.
Tạo việc làm mới cho 15,5 nghìn lao động/năm. Lao động qua đào tạo đến năm 2020 đạt 60%. Hộ nghèo giảm bình quân hàng năm từ 1,5-2%/năm (theo chuẩn mới). Vào năm 2020 có 50% số xã và từ 1 - 2 huyện đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2020 còn 1,12%. Có 90% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Có 50% số trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Bảo vệ môi trường, ứng phó có hiệu quả biến đổi khí hậu; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Chào mừng kỷ niệm 25 năm Ngày tái lập tỉnh, gắn với kỷ niệm 42 năm Ngày giải phóng Ninh Thuận, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà tự hào và phấn khởi trước những thành tựu đã được trong chặng đường qua; đồng thời nhận thức sâu sắc những thách thức, khó khăn đang đặt ra phía trước. Vùng đất kiên trung vốn có truyền thống cách mạng, có nền văn hóa mang đậm sắc thái từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc anh em trong tỉnh; với những thành tựu và kinh nghiệm tích lũy được, cùng với sức mạnh nội lực và tiềm năng sẵn có, nhất định Đảng bộ và nhân dân Ninh Thuận sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành tựu hơn nữa, đưa Ninh Thuận ngày càng phát triển và hội nhập, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
|