1. Tháng 3/1935, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc), ngoài những Nghị quyết chỉ ra đường lối cách mạng về các mặt công tác để chuẩn bị điều kiện cho phong trào cách mạng Đông Dương bước sang một thời kỳ mới; Đại hội đã có “Nghị quyết về đội tự vệ” được thông qua ngày 28/3/1935. Đây là một mốc son lịch sử của Dân quân tự vệ Việt Nam và ngày 28/3 hằng năm là Ngày truyền thống của Dân quân tự vệ.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ và các văn bản quy phạm pháp luật khác đều khẳng định: Dân quân tự vệ là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước; sự quản lý, điều hành của Chính phủ mà trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp; người chỉ huy cao nhất là Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (nay là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ).
3. Hiến pháp năm 2013, tại Điều 66, quy định: “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 55/BBT ngày 29/9/1989, Nghị định số 29/HĐBT ngày 29/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa IX, khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chỉ thị 16-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với lực lượng Dân quân tự vệ và lực lượng Dự bị động viên trong tình hình mới. Tháng 01/1996 Pháp lệnh về Dân quân tự vệ ra đời và tháng 11/2009 Luật Dân quân tự vệ được Quốc hội khóa XII thông qua, đây là những văn bản có tính pháp lý cao nhất của Nhà nước nhằm tiếp tục tăng cường chỉ đạo xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ.
II. CÔNG LAO ĐÓNG GÓP CỦA LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ 80 NĂM QUA.
A. TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.
1. Những năm 1930 – 1931, cả nước có rất nhiều cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp nổ ra ở hầu hết các địa phương, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Thời kỳ này, Đảng ta đã xác định lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu; tuy nhiên, Đảng ta cũng xác định một số vấn đề cơ bản về chủ nghĩa vũ trang, vũ trang bạo động; coi khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của đông đảo quần chúng. Do đó, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (tháng 3/1931), Đảng ta chủ trương, khi dành được chính quyền thì thành lập “Quân đội công nông”.
2. Trong những năm 1932 – 1940, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng đã chuyển từ đấu tranh chính trị từng bước tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Một số đội du kích ra đời và phát triển thành các trung đội Cứu quốc quân. Lực lượng tự vệ được khẩn trương xây dựng ở trên khắp các tỉnh, nhất là Bắc Bộ, Trung Bộ.
3. Thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa dành chính quyền (1940 – 1945), đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng nông thôn, thành thị, Đảng ta đả chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ, tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ đã trở thành tổ chức vũ trang quần chúng của các đoàn thể cứu quốc trong mặt trận Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; phối hợp với các đơn vị Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ.V.v… đến tháng 8/1945 lực lượng Dân quân tự vệ đã phát triển lên tới vài chục nghìn người cùng với giải phóng quân và toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa.
B. CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.
1. Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Dân quân tự vệ Việt Nam trở thành lực lượng vũ trang của Nhà nước, một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng này đã thực sự là một công cụ chuyên chính chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ và thành quả cách mạng.
2. Ngày 23/9/1945, quân đội Pháp được quân Anh giúp sức nổ súng gây chiến tranh xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các địa phương ở miền Nam nhất là Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng Dân quân tự vệ đã phối hợp với bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu ngăn chặn địch, diệt ác, trừ gian, phá hoại đường giao thông.v.v… ở miền Bắc, lực lượng Dân quân tự vệ phối hợp với Công an nhân dân và Vệ quốc quân tham gia trừng trị bọn phản động nội địa, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
C. KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954).
1. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946), lực lượng Dân quân tự vệ và du kích phát triển rộng khắp trong cả nước và ngày càng lớn mạnh. Từ chỗ là lực lượng vũ trang quần chúng do Mặt trận chỉ đạo, Dân quân tự vệ đã từng bước được thống nhất về tổ chức, là một bộ phận trong Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do các xã đội, huyện đội, tỉnh đội chỉ đạo, chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng các cấp. Đây là bước phát triển mới về chất của lực lượng Dân quân tự vệ.
2. Đến đầu năm 1947, lực lượng Dân quân tự vệ đã phát triển lên gần 3 triệu người, riêng ở Thủ đô Hà Nội có 6.000 đội viên, ở chiến trường Nam Bộ, lực lượng dân quân du kích phát triển lên 27 vạn (nữ có 5,7 vạn); trong đó, du kích chiến đấu là 1,4 vạn. Ở chiến trường Trung Bộ, đến cuối năm 1949 phát triển 28,5 vạn dân quân du kích, 22.000 bạch đầu quân. Ở Bắc Bộ, dân quân du kích phát triển mạnh với hơn 27,9 vạn người với đủ các lứa tuổi, trai, gái.
3. Phòng Dân quân tự vệ (nay là Cục Dân quan tự vệ) và hệ thống cơ quan Dân quân tự vệ từ quân khu đến các địa phương được thành lập để chỉ đạo xây dựng phong trào. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, bằng các loại vũ khí thô sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch, phải đương đầu với quân đội viễn chinh pháp được trang bị hiện đại, lực lượng Dân quân tự vệ và du kích đã cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, dựa vào hệ thống này kiên cường bám đất, bám dân, tiêu hao lớn quân địch, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội địa phương chống địch càn quét, bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, giải phóng làng xã, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện tích cực kiềm chế, căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện và góp phần cùng bộ đội chủ lực thực hiện nhiều chiến dịch lớn, đánh bại các biện pháp chiến lược của địch, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
4. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Dân quân tự vệ và bộ đội địa phương đã tiêu diệt 23,1 vạn/50 vạn quân địch (chiếm tỉ lệ 46,6% tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt), làm tan rã trên 20 vạn tên (chiếm tỉ lệ 35%) và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng địch trên toàn chiến trường, chiến bại tướng Na Va phải thú nhận: “Quân Pháp đông nhưng chỉ để được 10% lực lượng cơ động chiến lược”. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta giành thắng lợi đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của chủ nghãi thực dân. Lực lượng dân quân, du kích và tự vệ đã đóng góp công sức và xương máu vô cùng to lớn vào chiến công chung của toàn dân tộc.
D. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1955 – 1975).
1. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, lực lượng Dân quân tự vệ ở miền Bắc đã tích cực tham gia cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, phong kiến, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất; tham gia bắt gọn nhiều toán biệt kích Mỹ - Ngụy tung ta miền Bắc. Trong chiến tranh phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng không quân, hải quân hiện đại của đế quốc Mỹ, lực lượng phòng không Dân quân tự vệ miền Bắc đã tổ chức trên 700 phân đội, tăng cường trang bị nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại như: súng máy cao xạ 12/7mm, 14,5mm, 58 đại đội pháo cao xạ 37mm đến 100mm và 36 phân đội pháo binh các loại dánh tàu chiến địch.v.v… Lực lượng Dân quân tự vệ đã phối hợp với bộ đội, công an nhân dân thực hiện “tay cày tay súng, tay búa tay súng” chiến đấu liên tục ngày đêm. Cùng với mạng lưới bắn máy may thấp bằng súng bộ binh hình thành lưới lửa tầm thấp dày đặc vô cùng lợi hại, Dân quân tự vệ đã phối hợp chặt chẽ với Bộ đội phòng không, không quân bắn rơi nhiều máy bay địch. Riêng Dân quân tự vệ đã độc lập bắn rơi 424 máy bay các loại trong tổng số 4.181 máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc (chiếm 10%), bắt sống hàng trăm tên giặc lái và hàng chục toán biệt kích, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch.
2. Lực lượng dân quân du kích ở miền Nam luôn chủ động đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức đánh địch hết sức phong phú, sáng tạo trên khắp 3 vùng chiến lược (vùng rừng núi, vùng nông thôn đồng bằng, vùng thành thị); kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận), hình thành thế trận chiến đấu, phát triển các căn cứ chiến đấu, vành đai du kích, vành đai diệt mỹ… thực hiện bám trụ kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Đây là một phương thức tác chiến, một cách đánh độc đáo, sáng tạo của chiến tranh du kích việt Nam. Trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975, lực lượng Dân quân tự vệ cùng bộ đội chủ lực và toàn dân miền Nam tiến công và nổi dậy đồng loạt; xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đ. GIAI ĐOẠN CẢ NƯỚC THỐNG NHẤT ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1. Dân quân tự vệ Việt Nam đã làm nòng cốt cho nhân dân cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực rà phá bóc gỡ bom mìn địch, giải phóng hàng triệu ha đất canh tác để nhân dân khôi phục sản xuất, tiếp tục truy quét tàn quân, bọn phản động của địch còn cài cắm lại. Lực lượng Dân quân tự vệ đã được huy động hàng triệu lượt người tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu góp phần quan trọng và thắng lợi của 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam; phối hợp với Công an nhân dân và các lực lượng khác thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
2. Lực lượng Dân quân tự vệ được tổ chức, biên chế tinh gọn, có số lượng phù hợp theo quy định của Pháp lệnh Dân quân tự vệ (2004) và Luật Dân quân tự vệ (2009), chất lượng tổng hợp được nâng cao. Đặc biệt, trong những năm gần đây, các bộ, ngành Trung ương và các địa phương đã chỉ đạo làm tốt việc đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi Dân quân tự vệ; tỷ lệ Dân quân tự vệ so với dân số toàn quốc ngày một tăng lên và chất lượng không ngừng được nâng cao. Tổ chức, biên chế lực lượng phù hợp với tình hình thực tiễn và tích chất hoạt động của Dân quân tự vệ; có lực lượng cơ động, chiến đấu tại chỗ và lực lượng binh chủng, lực lượng Dân quân tự vệ hoạt động trên biển theo sự chỉ đạo của cơ quan quân sự địa phương. Cùng với các lực lượng khác, lực lượng Dân quân tự vệ đã góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị, củng cố tăng cường quốc phòng – an ninh trên phạm vi cả nước cũng như ở mỗi địa phương. Lực lượng Dân quân tự vệ đã thực sự là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân ở cơ sở. Từ năm 2002 đến nay, lực lượng Dân quân tự vệ đã có 16.761.878 người với 42.617.994 ngày công tham gia trực sẵn sàng chiến đấu và tuần tra canh gác; 43.167 người với 189.860 ngày công tham gia bảo vệ biên giới đất liền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo Việt Nam; 887.093 ngày công tham gia bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; 2.093.931 người tham gia với 5.345.537 ngày công tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn và 3.895.344 người với 9.218.882 ngày công vận động quần chúng tham gia xây dựng cơ sở.
3. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, Dân quân tự vệ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, dân tộc và nhân dân, lập nên những chiến công to lớn, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân quân tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”. Ngày nay, truyền thống đó đã và đang được kế thừa, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đổi mới toàn đất nước.
Qua các thời kỳ cách mạng đã có 370 tập thể và 284 cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”./. |