NINH THUẬN
|
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN
Tháng 05/2019
Lưu hành nội bộ
|
“TUỔI TRẺ NINH THUẬN
NHỚ LỜI DI CHÚC THEO CHÂN BÁC”
1. Nội dung:
Tuyên truyền, giới thiệu trong đoàn viên thanh niên về cuộc đời, sự nghiệp và những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam và vì nền hòa bình thế giới; giá trị Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với nhiệm vụ chính trị của bản thân tại địa phương, đơn vị; giá trị và ý nghĩa thực tiễn trong tư tưởng, lời dạy của Bác đối với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước ta hiện nay; chủ động đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Tuyên truyền tư tưởng của Bác về vị trí, vai trò, trách nhiệm của thanh niên nói chung, đoàn viên nói riêng; về việc chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về những tình cảm và sự kỳ vọng của Bác đối với thế hệ trẻ trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước phồn thịnh; tuyên truyền và phát động trong đoàn viên, thanh niên học tập những phẩm chất đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh trong từng lĩnh vực, nghiệp vụ chuyên môn cụ thể gắn với kế hoạch việc học tập và làm theo lời Bác; tổ chức sinh hoạt chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 dành cho cán bộ đoàn và đoàn viên, thanh niên.
Giới thiệu những phần việc cụ thể có ý nghĩa thiết thực mà các điển hình tập thể, cá nhân được tuyên dương “Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác” đã thực hiện và tuyên truyền, phát động đoàn viên, thanh niên, các chi đoàn học tập, làm theo; tuyên truyền những tập thể, cá nhân điển hình; những kinh nghiệm, mô hình, cách làm hay của các đơn vị trong việc thực hiện Di chúc, trong việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Tham gia tích cực hội thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường” lần thứ III.
2. Hình thức.
- Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền qua thông qua mạng xã hội, tăng cường sử dụng hệ thống thông tin, tuyên truyền của Đoàn như Trang thông tin điện tử, Trang mạng xã hội (Facebook, zalo,…), phối hợp với các cơ quan báo, đài tại địa phương, đơn vị để đăng tải các thông tin tuyên truyền chính thống.
- Lồng ghép các hình thức tuyên truyền trực quan như: tổ chức hái hoa dân chủ, các cuộc thi, hội thi, toạ đàm, nói chuyện chuyên đề, hội thảo,… tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; giá trị Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Tổ chức các hoạt động thiết thực gắn với việc tuyên truyền các ngày lễ lớn, kỷ niệm của đất nước, dân tộc nhất là kỷ niệm 65 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ; 78 năm Ngày thành lập Đội TNTP Hồ Chí Minh và các hoạt động chăm lo cho thanh niên công nhân nhằm hưởng ứng Tháng Công nhân và Tuần lễ thanh niên công nhân năm 2019.
- Tổ chức các hoạt động về nguồn, tham quan các di tích lịch sử văn hoá gắn với cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như: Chùa Hội Khánh, Bến Nhà Rồng, Bảo tàng Hồ Chí Minh, căn Nhà số 5 đường Châu Văn Liêm (Phường 14, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh),…
- Tổ chức cho Đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên thi tập trung các cuộc thi của Trung ương, của Tỉnh phát động phù hợp tại đơn vị mình (thi tập trung tại phòng máy có internet, phát động thi đồng loạt tại giờ ra chơi tại lớp…).
- Tổ chức tuyên dương các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Ban Tổ chức xây dựng Đoàn – Hội
1. Khái quát về tiểu sử và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969)
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Quá trình hoạt động cách mạng ngoài nước - Tìm con đường giải phóng dân tộc.
Tháng 6/1911, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các học thuyết cách mạng.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Tháng 6/1919, thay mặt Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới Hội nghị Versailles (Pháp) Bản yêu sách của nhân dân An Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam .
Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tours, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Đặc biệt, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa.
Ngày 30/6/1923, Người đến Liên Xô và bắt đầu một thời kỳ hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được cử làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á .
Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, sáng lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước, đồng thời mở lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Người triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940, Người tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sam Cao, thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
Tháng 8/1945, Người cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, cử Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố trước nhân dân cả nước và nhân dân thế giới quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tháng 9/1945, thực dân Pháp câu kết với đế quốc Mỹ, Anh và lực lượng phản động Quốc dân Đảng (Trung Quốc) trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam và lấn dần từng bước kéo quân đánh chiếm miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lần đầu tiên trong cả nước. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 7/1954, với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Géneva được ký kết. Miền Bắc được giải phóng. Miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm lược biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người, nhân dân ta vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, mặc dù đã được các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng do tuổi cao sức yếu Người đã từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình cho Tổ quốc, cho nhân dân, vì lý tưởng cộng sản, vì độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Năm 1987, tại kỳ họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục - Văn hóa - Khoa học của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ra Nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và nhà văn hóa kiệt xuất” .
Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng
Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng vĩ đại, là tấm gương sáng ngời về nhân sinh quan cách mạng, là tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Người đã để lại cho các thế hệ dân tộc Việt Nam một di sản tinh thần vô cùng quý báu mãi soi đường, chỉ lối cho chúng ta đi. Đó là tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, trong thời đại Hồ Chí Minh.
Từ Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị khóa X, đến Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Bộ Chính trị khóa XI, và gần đây nhất là Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã cho thấy đó là những giá trị to lớn và thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, là những nội dung chuẩn mực, cốt lõi để xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong điều kiện hiện nay.
Đối với tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên ngày càng nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nội dung hết sức quan trọng và thiết thực của mỗi cấp bộ Đoàn – Hội – Đội toàn tỉnh. Các nội dung cốt lõi cần tập trung trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn liền với xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Bình Dương thời kỳ mới có “Tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn” góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cụ thể là:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng; về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh...
- Quan điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với các nội dung sau: tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội; tinh thần lạc quan, tin tưởng, đấu tranh mọi biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...
- Phong cách Hồ Chí Minh với các nội dung: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, lý luận gắn liền với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; phong cách nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương…
Căn cứ Theo Kế hoạch số 272 KH/TĐTN-TG ngày 07/9/2016 của Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn về việc Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi giai đoạn 2016 – 2021; Đoàn viên, thanh niên cần rèn luyện và phấn đấu thực hiện những nội dung “Nên làm - Không nên làm”, cụ thể là:
+ 08 điều nên làm: Xung kích, trách nhiệm, gương mẫu, trung thực, sáng tạo, thân thiện, thường xuyên học tập, tích cực rèn luyện kỹ năng.
+ 08 điều không nên làm: Phát ngôn không đúng; làm việc hình thức, đối phó; quan liêu, hành chính hóa; thiếu khiêm tốn và không cầu thị; không chấp hành kỷ luật; thiếu tinh thần đoàn kết; thiếu ý chí đấu tranh; thiếu chuẩn mực trong lối sống.
- Phấn đấu xây dựng hoàn thiện các giá trị hình mẫu thanh niên Bình Dương, tập trung vào các nội dung cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn liền với xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Bình Dương thời kỳ mới có "Tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn" góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó cụ thể theo từng khối đối tượng:
+ ĐVTN khối học sinh, sinh viên hướng đến tiêu chí: Tích cực, sáng tạo, hội nhập.
+ ĐVTN đô thị hướng đến tiêu chí: Năng động, sáng tạo, xung kích xây dựng đô thị văn minh.
+ Cán bộ Đoàn, Hội, Đội hướng đến tiêu chí: Gương mẫu, sáng tạo, trách nhiệm, sâu sát cơ sở
+ ĐVTN nông thôn hướng đến tiêu chí: Cần cù, sáng tạo, xung kích, xây dựng nông thôn mới.
+ Đoàn viên, TNCN hướng đến tiêu chí: Rèn tay nghề, chuẩn tác phong, nâng cao năng suất lao động.
+ Đội viên, thiếu nhi hướng đến tiêu chí: Học giỏi, chăm ngoan, làm nhiều việc tốt.
+ ĐVTN cán bộ, công chức, viên chức trẻ hướng đến tiêu chí: Gần dân, sát dân, thân thiện, hiệu quả.
+ ĐVTN khối lực lượng vũ trang hướng đến tiêu chí: Trung thành, bản lĩnh, xung kích, sẵn sàng.
+ Doanh nhân trẻ hướng đến tiêu chí: Chủ động, sáng tạo, hội nhập.
Riêng đối với đoàn viên, thanh niên công nhân, tiêu chí “Rèn tay nghề, chuẩn tác phong, nâng cao năng suất lao động”:
- Rèn tay nghề: Là tự ý thức học tập, rèn luyện, nâng cao tay nghề, để nâng cao năng suất lao động, để khi có cơ hội họ lựa chọn công việc phù hợp nhất. Tay nghề chính là “bảo hiểm” của việc làm và thu nhập. Người lao động cũng hiểu rằng, thị trường lao động đang chọn lọc, tiếp nhận đội ngũ nhân lực có tay nghề, kỹ năng nên những người lao động có tay nghề sẽ có cơ hội hơn.
- Chuẩn tác phong: Với một xã hội đang chuyển biến theo từng giờ, từng phút thì tất nhiên con người cũng phải thay đổi theo môi trường sống. Vì vậy, đoàn viên, thanh niên công nhân cần phải luôn luôn chủ động tự trang bị cho mình những kỹ năng, cách ứng xử đối với các mối quan hệ trong xã hội để tiếp cận và hòa nhập với một xã hội đang chuyển biến không ngừng hiện nay. Cụ thể: Kỹ năng giao tiếp hiệu quả; biết cách tư duy sáng tạo; biết vận động quận chúng hiệu quả; rèn luyện sức khỏe; nâng cao trình độ học vấn; ....
- Nâng cao năng suất lao động: Đoàn viên, thanh niên công nhân phải luôn chủ động, tích cực phát huy khả năng sáng tạo, đề xuất sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào quá trình sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, công trình. Tăng cường giáo dục thanh niên có thái độ tích cực đối với công việc, chủ động rèn luyện kỹ năng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
|
3. Lời Bác dạy
"Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, phải làm thế nào xứng đáng là lãnh đạo để người ta tin cậy. Nếu ta sản xuất xấu, chẳng những mất công, tốn nguyên liệu mà lại mất cả uy tín nữa. Do đó, cần phải làm cho tốt".
(Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập - t.13, tr.268)
"Vai trò của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn rất quan trọng. Các cô, các chú phải lãnh đạo công nhân thi đua yêu nước cho tốt, hoàn thành kế hoạch 3 năm sớm chừng nào hay chừng ấy để có thời gian chuẩn bị bước vào kế hoạch 5 năm. Thi đua tốt là phải làm nhanh, nhiều, tốt, rẻ".
(Nguồn: Sđd - t.12, tr.633)
Trích: Tạp chí xây dựng Đảng
Đặc sắc tháp Pô Rômê
Tháp Pô Rômê thu hút đông đảo du khách gần xa đến chiêm ngưỡng nét kiến trúc đặc sắc của nền văn hóa Chăm.
Tháp Pô Rômê tọa lạc trên ngọn đồi thuộc địa bàn thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước. Tháp cao khoảng 8 mét được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ XVII thờ Pô Rômê, vị vua có công dẫn thủy nhập điền, sản xuất nông nghiệp tạo cuộc sống no ấm cho dân làng. Nhà nước đầu tư nhiều tỉ đồng trùng tu tháp Pô Rômê được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào tháng 8 năm 1992. Tháp Pô Rômê thu hút đông đảo du khách gần xa đến chiêm ngưỡng nét kiến trúc đặc sắc của nền văn hóa Chăm.
H1: Toàn cảnh tháp Pô Rômê vừa được Nhà nước đầu tư trùng tu bảo tồn nguyên vẹn kiến trúc
H2: Tháp chính thờ tượng vua Pô Rômê và hoàng hậu Bia Thanh Chanh
H3: Tượng hoàng hậu Bia Thanh Chik trong ngôi miếu ở phía nam tháp Pô Rômê.
H4 Khu bia mộ cổ nằm phía sau tháp Pô Rômê.
Nguồn: Sơn Ngọc, Báo Ninh Thuận
1. Theo dòng lịch sử
2. Ngày truyền thống
NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
|
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
- Nguyên nhân thắng lợi
Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch đã đề ra đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, lòng yêu nước và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã tạo nên ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ còn có sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh vì hoà bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
- Ý nghĩa lịch sử
Đối với nhân dân ta
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch, trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông Dương; bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng Tháng Tám; mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm tăng niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đối với thế giới
Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại.
Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn chí mạng vào nền móng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh sập thành luỹ của chủ nghĩa thực dân cũ ở vị trí xung yếu nhất, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới; báo hiệu sự thất bại chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ cầm đầu.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi; đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ la tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Nguồn: Tỉnh uỷ Điện Biên
|
LỊCH SỬ THÀNH LẬP ĐỘI TNTP HỒ CHÍ MINH
Link:http://www.thieunhivietnam.vn/gioi-thieu-chung.html
Nguồn: Hội đồng Đội Trung ương
BẰNG KHEN CỦA TỔNG BỘ VIỆT MINH TRUY TẶNG ANH KIM ĐỒNG – NGƯỜI ĐỘI TRƯỞNG ĐẦU TIÊN CỦA ĐỘI TNTP HCM
Link: http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/1002/14283/bang-khen-cua-tong-bo-viet-minh-truy-tang-anh-kim-djong-nguoi-djoi-truong-djau-tien-cua-djoi-tntp-hcm.html
Nguồn: Bảo tàng lịch sử quốc gia
THÀNH LẬP MẶT TRẬN VIỆT MINH
Tháng 5 năm 1941, trước những thay đổi mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng ở Khuổi Nậm, Pác Bó, Cao Bằng quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng - khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Link:http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3097/16382/19-5-1941-thanh-lap-mat-tran-viet-minh.html
Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
60 NĂM ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH
Cách đây 60 năm, trước đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã ra đời, từng bước được xây dựng, phát triển, góp phần đặc biệt quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm tháng trôi qua, nhưng quyết định mở đường Trường Sơn là một quyết định lịch sử, mang tầm chiến lược của Đảng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Link:http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/39959702-60-nam-duong-truong-son-duong-ho-chi-minh.html
Nguồn: Báo Nhân dân
CHƯƠNG II
TUỔI TRẺ NINH THUẬN TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (9/1945 - 7/1954)
II. TUỔI TRẺ NINH THUẬN KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở ĐỒNG BẰNG, PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO DU KÍCH CHIẾN TRANH Ở MIỀN NÚI (1949-12/1951):
Năm 1949, được Mỹ viện trợ, Pháp đưa thêm vào Việt Nam 2 vạn quân, mở rộng chiếm đóng nhiều vùng ở Bắc bộ và lo củng cố biên giới Việt-Trung. Ở Liên khu 5, địch ra sức đánh phá vùng tự do, càn quét khủng bố các tổ chức chính trị và vũ trang của ta, củng cố ngụy quyền, đẩy mạnh phát triển ngụy quân. Với chủ trương “xiết chặt” và “vết dầu loang”, chúng mở nhiều cuộc càn quét (với lực lượng từ Đại đội đến Tiểu đoàn).
Ở trong tỉnh, do vị trí địa hình và tương quan lực lượng giữa ta và địch: chúng muốn biến Ninh Thuận thành một trung tâm bình định kiểu mẫu. Hệ thống cứ điểm của địch thêm dày đặc. Chúng ra sức dồn dân càn quét, lùng sục bên ngoài, kiểm soát chặt chẽ bên trong, tổ chức thêm ngụy quân, củng cố ngụy quyền cơ sở phong tỏa việc tiếp tế của ta. Lực lượng địch thuộc chi khu Nha Trang gồm 4 tiểu khu (Tháp Chàm, Đồng Mé, Phan Rang và Ninh Chữ), quân số lên đến 1.800 tên (trong đó có 1.000 lính Âu Phi).
Trước tình hình đó, Liên khu ủy 5 Chỉ thị: tổ chức sắp xếp lại các đơn vị vũ trang, thực hiện phương châm chiến lược chiến tranh du kích, đẩy mạnh hỗ trợ, phối hợp giữa các tỉnh, tăng cường lực lượng cho Ninh Thuận và Lâm Đồng, sát nhập 2 Trung đoàn 81, 82 thành liên Trung đoàn 81-82.
Tháng 8/1948 Tỉnh ủy chủ trương giải tán các vùng thành lập 4 huyện, thị (Thuận Bắc, Thuận Nam, An Phước và thị xã Phan Rang – Tháp Chàm). Từ giữa năm 1949, phong trào kháng chiến ở Ninh Thuận đã đi vào thế khó khăn. Lực lượng ta bị đẩy ra khỏi dân, do địch đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống tháp canh, các khu tập trung dân trong tỉnh đều có rào kiên cố xung quanh có nhiều tháp canh, ở giữa có đồn. Chúng ráo riết bắt lính rào làng, củng cố Tề, nhằm bao vây kinh tế, kiểm soát gắt gao ngăn cản thanh niên vào lính “quốc gia”. Có một số cơ sở nhất là cơ sở thanh niên bị chúng truy tróc đã thoát ly ra vùng kháng chiến tham gia lực lượng vũ trang hoặc tham gia sản xuất tự túc ở căn cứ. Tình hình đời sống quá khó khăn, lương thực thiếu trầm trọng. Tỉnh đội lúc bấy giờ phải ăn trái cây, củ rừng, nên lẻ tẻ có một số chiến sỹ đã đào ngũ chạy về hàng giặc. Phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1949 trở đi phải đương đầu với những khó khăn thử thách mới.
Ngày 10/02/1949, Liên Khu ủy 5 triệu tập Hội nghị đề ra nhiệm vụ cho các tỉnh. Riêng Ninh Thuận: cần phát triển lực lượng, chú trọng xây dựng đại đội độc lập và các đội vũ trang công tác để tiến về làng khôi phục lại cơ sở. Về chính trị hợp nhất Liên Việt – Việt Minh thành Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt. Về kinh tế thì đẩy mạnh phá hoại kinh tế địch, phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc, miền núi và những nơi có đồng bào kinh tế sống bất hợp pháp.
Trước tình hình khó khăn về lương thực, Tỉnh ủy chủ trương huy động thanh niên vào tận Tuy Phong (Bình Thuận), vận chuyển lương thực. Trong đấu tranh chống dồn dân rào làng, thanh niên không chịu dồn vào vùng sâu, bất hợp tác với địch, không muốn sống trong cảnh cá chậu chim lồng, bị kèm kẹp trong khu tập trung nên một bộ phận thanh niên thoát ly; một số gia nhập du kích tập trung xã, lực lượng vũ trang huyện, tỉnh, các đội vũ trang tuyên truyền và các đội vận tải. Trước những đợt bắt lính ở các vùng tạm chiếm, thanh niên nhiều nơi đã dựa vào sự bảo vệ của các Mẹ và khi gác trại giam tìm cách đánh tháo, một số thanh niên thoát ly ra vùng giải phóng tham gia các đơn vị vũ trang. Mỗi thanh niên tham gia bộ đội thì được cấp 2 cái bao tải (lấy ở Sở Muối Cà Ná), 1 bộ quần áo, 1 ba lô và 1 dây thắt lưng; 20 công nhân Sở Muối được điều động tham gia xây dựng binh công xưởng và 22 thủy thủ tình nguyện vào đội vận tải vũ khí và các mặt hàng được tiếp nhận từ vùng tự do Liên khu 5 vào. Sau khi địch đã rào làng, lập các khu tập trung, đánh bật lực lượng ta ra khỏi quần chúng. Đầu năm 1949 ta chủ trương tiến về làng bám dân, bám địch, móc nối khôi phục cơ sở bên trong, lãnh đạo quần chúng kết hợp vận động tranh thủ sự đồng tình của ngụy quân, ngụy quyền tại chỗ đấu tranh từng bước phá lỏng, phá rã các khu tập trung bung dân về vườn đất cũ làm ăn.
Lực lượng kháng chiến trong tỉnh đang chuyển mình vươn lên với những chiến thắng khắp nơi thì giặc Pháp lại ráo riết cướp phá mùa màng. Bất cứ ở đâu hễ lúa vừa chín là chúng tập trung bám theo buộc đồng bào gặt xong phải đạp ngay để đưa lúa vào gần đồn. Bảo vệ mùa màng trở thành một công tác trọng tâm, có thể chia làm hai khâu: Một là vận động Nhân dân thu hoạch lúa nhanh, chôn dấu lại ngoài đồng, chỉ đem về nhà một phần đủ ăn và đấu tranh không tập trung lúa về đồn. Hai là bộ đội dân quân du kích, thanh niên giúp đồng bào tập trung thu hoạch lúa, chôn dấu lại ngoài đồng, đưa vào rừng hoặc đưa ra chiến khu, hạn chế hoặc không để địch cướp lúa. Các chi Đoàn động viên tất cả lực lượng đoàn viên tích cực phục vụ công tác bảo vệ mùa màng ở địa phương mình hoặc hỗ trợ các địa phương khác bất kể ngày, đêm. Nếu không nằm trong diện dân quân gác bù thì ở trong đội tự vệ bắn tỉa hoặc trực tiếp gặt hái vận chuyển lúa ra vùng ta kiểm soát. Nhiệm vụ nào cũng đầy nguy hiểm, không ít anh em gát bù bị địch phục kích vây bắt, hoặc bị bắn giết.
Về tổ chức Đoàn: giữa năm 1950 Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Thuận chủ trương thành lập tổ công tác thanh vận gồm 3 đồng chí: Nguyễn Đình Lập (Đang), Thanh Thanh và Dương Thanh do đồng chí Lập làm tổ trưởng, phụ trách chung và trực tiếp phụ trách các xã ở phía Nam tỉnh, đồng chí Dương Thanh phụ trách các xã miền núi, đồng chí Thanh Thanh phụ trách các xã ở vùng II. Tổ Thanh vận có nhiệm vụ theo dõi nắm tình hình tổ chức và hoạt động của thanh niên trong tỉnh, kể cả thanh niên trong lực lượng vũ trang và nghiên cứu giúp Tỉnh ủy chỉ đạo công tác Thanh niên().
Ở cơ quan tỉnh, chi Đoàn đã thành lập các đội bóng chuyền, tổ chức mấy lớp học văn hóa, thành lập các đội văn nghệ quần chúng do anh Diệp Xương dạy đàn cho các em, ngoài ra Đoàn còn tổ chức làm báo tường nhân các ngày lễ. Trong các ngày lễ lớn 3/2, 26/3, 2/9 ta mời đồng bào, thanh niên và cơ sở chiến khu tham dự các đêm lửa trại. Thông qua các đêm lửa trại tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ, động viên tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến chống giặc và đề cao cảnh giác trước những âm mưu của địch.
Công tác Thanh niên cứu quốc trong năm 1950 có bước phát triển, cuối năm 1949 toàn tỉnh có 289 đoàn viên, đến cuối năm 1950 tăng lên 1249(). Tháng 7/1950 Liên khu 5 cử 04 cán bộ thanh niên ở các vùng tự do vào tăng cường cho Ninh Thuận, trong số đó có đồng chí Lương Bá Hải (Như), Lê Đảnh, Huỳnh Ngang, Đỗ Ngâu (tự Hiền)().
Ở thị xã Phan Rang – Tháp Chàm lúc bấy giờ có một số đồng chí phụ trách công tác Thanh niên, một số xã: Thuận Thành, Thuận Thủy, Thuận Dân, Thuận Bình, Thuận Khánh,… có Ban Chấp hành xã Đoàn. Ở miền núi từ năm 1950 trở đi công tác Thanh niên được đặc biệt quan tâm, nên phong trào Thanh niên ở miền núi có nhiều chuyển biến, đến tháng 10/1950 ở căn cứ miền núi đoàn viên, thanh niên có 507 người, đến năm 1951 có 622 người(). Lúc bấy giờ Tỉnh ủy chủ trương: “Phải xây dựng Bác Ái thành căn cứ kháng chiến vững mạnh toàn diện, tranh thủ tầng lớp trên vận động tề vệ, các tổ vũ trang, nhưng cốt lỏi là thông qua lớp trên để đi vào quần chúng, mà chủ yếu là lực lượng thanh niên là chỗ dựa chính của cách mạng”. Nhiều cán bộ người Kinh, người dân tộc chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương chính sách của Đảng, kiên trì vận động thanh niên, cùng ăn, cùng ở, cùng lao động sản xuất với đồng bào vùng căn cứ; nhiều cán bộ trẻ đã trưởng thành đạt nhiều thành tích trong công tác xây dựng căn cứ Bác Ái như Đặng Quang Cầm- được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang Nhân dân. Bên cạnh đó, lực lượng thanh niên đã phát động phong trào sản xuất, bố phòng; tiêu biểu cho phong trào này có các anh Trần Ca (ủy viên Ban cán sự Bác Ái), Anh Tốc (chủ tịch xã), anh Xá, anh Hoàng là các xã đội trưởng. Anh Hoàng tiêu biểu cho quần chúng thanh niên luôn đi đầu trong phong trào đánh giặc. Ở các CK và các khu dân sinh hầu hết thanh niên đều vào dân quân du kích, là lực lượng nòng cốt cùng Nhân dân bố phòng xây dựng làng chiến đấu, canh gác đánh địch giữ làng, bảo vệ đồng bào, bảo vệ sản xuất, hoa màu; tham gia bình dân học vụ, xóa mù chữ và tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ ở địa phương; tiếp tế cho bộ đội, đi di dân công hỏa tuyến.
Trong những năm từ 1949 đến 1951, việc vận chuyển lương thực từ Bình Thuận ra cũng chỉ giải quyết một phần cho lực lượng bộ đội, các cơ quan cấp Tỉnh. Còn ở vùng I và IV (Ninh Hải ngày nay) lực lượng du kích và cán bộ xã phải lấy lương thực từ căn cứ Bác Ái và Nhân dân trong thôn xóm. Nhiều lúc ở chiến khu rất khó khăn về lương thực, thực phẩm cán bộ chiến sỹ phải nhịn đói, phải sống bằng củ rừng. Nguồn tiếp tế từ Nhân dân là sự sống còn. Trên đường vận tải lương thực, vũ khí, đạn dược thường bị địch phục kính như trường hợp Tiểu đội nữ vận tải đã hy sinh 07 chị vào tháng 02/1950 tại Truông Rậm (nay là Bầu Giôn – Hữu Đức – Phước Hữu) khi tuổi đời mới 18, đôi mươi().
Cuối năm 1950, trên chủ trương chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Phong trào Thanh niên đã tập trung phục vụ các chiến dịch, cùng với các đợt tổng động viên nhân lực, tài lực. Tỉnh ủy chủ trương huy động Nhân dân và thanh niên trong vùng địch kiểm soát (kể cả thị xã) ra chiến khu học tập, ta vận động ủng hộ nhân lực, tài lực chuẩn bị chuyển qua tổng phản công. Địa bàn chính của chiến dịch Đông Xuân là vùng II, III (nay là huyện Ninh Phước), một trong những kho nhân lực, tài lực của tỉnh mà kẻ địch cố giành giật với ta. Mục tiêu của chiến dịch Đông Xuân năm 1950-1951 là diệt một số cứ điểm, làm tiêu hao sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Kết hợp địch vận làm lung lay hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, đồng thời phá một số khu tập trung, xây dựng phát triển lực lượng chính trị trong vùng địch, phát triển du kích chiến tranh. Để phục vụ tốt cho lực lượng vũ trang hoạt động một chiến trường đã nhiều năm khó khăn thiếu thốn. Hàng trăm dân công được huy động để đưa vũ khí, đạn dược, lương thực, nhu yếu phẩm đến nơi. Số thanh niên không trực tiếp tham gia chiến dịch thì ngày đêm thay nhau cùng các đơn vị du kích tập trung chống càn hoặc quấy rối địch.
Mở đầu chiến dịch Đông Xuân (tháng 3/1951), đồn Phú Quý bị ta đánh thiệt hại nặng, diệt 2/3 Đại đội địch, giải thoát 70 đồng bào bị địch bắt giam giữ (đánh không dứt điểm). Đồn Mông Đức chỉ có một Trung đội nhưng ta đánh cũng không dứt điểm. Sau 2 trận không thành công Ban chỉ huy chiến dịch kiểm điểm rút kinh nghiệm. Ngày 25/3/1951 tiếp tục tấn công Đồn Mông Đức lần 2, diệt bắt sống toàn bộ, thu 40 súng, địch bắt đầu dao động. Đầu tháng 4/1951 ta tấn công đồn Công Thành và phục kích diệt gọn một Trung đội ở An Xuân (Xuân Hải). Trước khí thế tiến công của ta, địch co lại trong đồn cố thủ. Các đồn bót lẻ, địch rút bỏ, Tề điệp dao động một số bỏ trốn. Du kích xã đã đột nhập vào các thôn như: Thuận Hòa, An Thạnh, Từ Tâm và các khu tập trung như Hoài Trung, Trường Sanh, Xóm Động,… yểm trợ cho các đội công tác hoạt động. Nhiều xã thanh niên đã nổi dậy đốt phá ranh rào, kéo nhau trở về làng cũ; các tổ chức quần chúng, cơ sở cách mạng được củng cố, ta đưa hàng trăm Hội, Tề ra chiến khu để giáo dục, có số sau học tập được ta giao nhiệm vụ. Khí thế cách mạng của quần chúng rất sôi nổi, hàng trăm thanh niên được huy động ra phục vụ chiến dịch và bổ sung lực lượng vũ trang.
Những năm 1950, 1951 các đợt vây bắt thanh niên đưa đi làm bia đỡ đạn xảy ra thường xuyên nhất là ở các vùng tạm bị chiếm, anh em thanh niên dùng hầm bí mật để trốn, hoặc dùng ghe thuyền ra biển để tránh lánh, hoặc tự hủy một phần thân thể của mình. Thanh niên luôn biểu thị lòng căm thù giặc cao độ. Từ hình thức đấu tranh chống bắt lính lẻ tẻ đến đấu tranh có tổ chức, anh em bao giờ cũng được sự hỗ trợ của đồng bào nhất là các cụ phụ lão, các mẹ, các chị. Ở Cà Ná, có lần chúng vây bắt cả làng 100 thanh niên, nhưng khi địch dùng xe chở đi thì một hàng rào người đã vây kín đoàn xe. Chị Lưu Thị Xưa người nữ đảng viên tuổi tròn 18, đã cùng ông Cả Ngang nằm chặn đầu xe. Hàng chục mẹ chiến sĩ và các chị ào ra ngăn cản địch, cuộc xô xát xảy ra hàng giờ. Cuối cùng một cơ sở của ta ra hiệu, cả đoàn thanh niên nhảy xuống xe, lẫn vào đám đông rồi mỗi người mỗi ngã thoát thân.
Để giảm nhẹ gánh nặng cho Nhân dân, tăng cường sức chiến đấu, Tỉnh ủy từng bước thực hiện tinh giảm biên chế, đưa cán bộ cấp tỉnh, huyện về các xã, thôn kiện toàn cơ sở, một số cán bộ quân sự cấp đại đội, trung đội đưa về làm nhiệm vụ trong các xã đội, thôn đội xây dựng dân quân du kích gương mẫu. Qua đấu tranh, đa số thanh niên đã tận dụng thuận lợi để cùng chiến đấu, sản xuất với Nhân dân ở địa phương. Ở một số chiến khu địch thường xuyên càn quét, các tổ du kích vẫn mua trâu bò, xin ruộng đất bỏ hoang để canh tác. Tiêu chuẩn tăng gia sản xuất của mỗi phân đoàn (1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích canh tác 2 sào lúa). Sống trong vùng căn cứ, thanh niên còn làm nhiều việc như: đào hầm tránh bom đạn, pháo; làm hầm chông, ngụy trang đường mòn, các nơi cất dấu lương thực, rào làng chiến đấu. Thanh niên ở CK7, CK35, CK19… và các khu dân sinh, các huyện, thị xã phải sản xuất tự túc, công tác chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn gian khổ.
Tháng 4/1951, tổ thanh vận đã tiến hành họp dưới sự chủ trì của các đồng chí Nguyễn Đình Lập (Thư ký), Dương Thanh và Thanh Thanh và đại diện công Đoàn có đồng chí Hồ Ngọc Tấn, đại diện Phụ nữ có đồng chí Sương. Cuộc họp đã tiến hành kiểm điểm công tác thanh niên trong thời gian qua và bàn công tác trong thời gian tới, đề ra một số nhiệm vụ như: Củng cố tổ thanh niên tiến tới thành lập ban cán sự thanh niên nông thôn, động viên kêu gọi thanh niên tích cực tham gia kháng chiến thoát ly tòng quân, phân công một số thanh niên hợp pháp nắm tình hình địch báo cáo cấp trên.
Tháng 5/1951 ta thành lập tại Tỉnh đội và huyện An Phước (huyện phụ trách các xã Chăm) và các Huyện đội Bác Ái, An Phước và Thị đội Phan Rang – Tháp Chàm cũng được thành lập lại. Mỗi huyện có 1 trung đội bộ đội địa phương, ở xã lập lại xã đội phụ trách tự vệ, du kích mật vụ và du kích chiến đấu thoát ly (mỗi xã có 1 tiểu đội đến 1 trung đội du kích thoát ly). Riêng đội vũ trang xã Lưu Phú có 20 thanh niên (phần lớn là thanh niên Chăm). Đội này đào hầm bám sát thôn xóm xây dựng phong trào cơ sở, anh em người Chăm ở đây rất gan dạ, tiêu biểu có các anh Hán Sanh, Hán Nhơn bị địch bắt tra tấn hết sức dã man, thà chết chứ không hề khai báo và các anh Trung, Đồng, Đổng, Phúc đi công tác bị địch phục kích các anh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Cuối năm 1951, Tỉnh ủy Ninh Thuận huy động thêm một lực lượng trẻ bổ sung cho đội vũ trang “Lưu Phú”. Đội này đã cùng các đội vũ trang địa phương móc nối xây dựng cơ sở phát triển dân quân du kích, phát động phong trào quần chúng đòi đi lại làm ăn. Nhờ đó từ cuối năm 1951 trở đi đồng bào ở các thôn Hoài Trung, Hữu Đức, Hậu Sanh, Vĩnh Thuận… đã len lỏi về ruộng rẫy vườn đất cũ làm ăn ngày càng đông. Ở các thôn đều đã có hòm thư bí mật và hũ gạo nuôi quân, các nơi đã cung cấp hàng tấn gạo.
Nhìn chung trong những năm từ 1949 đến 1951, ta đã vượt một chặng đường gay go quyết liệt. Phong trào cách mạng trong tỉnh vươn lên, đã phá một bước âm mưu dồn dân rào làn của địch, khôi phục lại các đoàn thể. Hoạt động vũ trang của ta có tiến bộ cả về phương thức và hiệu quả chiến đấu phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng cơ sở, bảo vệ sản xuất, bảo vệ căn cứ an toàn. Lãnh đạo Tỉnh, lực lượng vũ trang, đội công tác, Đoàn thanh niên đã nổ lực vượt bậc, sửa chữa khuyết điểm, tìm những biện pháp, phương thức hoạt động mới phù hợp với tình hình; ta đã xây dựng được nhiều cơ sở, củng cố và tăng cường được lòng tin trong Nhân dân, được Nhân dân ủng hộ, giúp đỡ.
(còn tiếp kỳ sau…)
Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và phong trào thanh thiếu nhi tỉnh Ninh Thuận (1930-2010)
Doanh nghiệp cho thuê lại lao động phải ký quỹ; quy định xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức vi phạm Luật Tố cáo; áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô tham gia giao thông; quy tắc ứng xử trong trường học;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5/2019.
1. 13 hoạt động đo đạc và bản đồ phải có giấy phép
Nghị định số 27/2019/NĐ-CP ban hành ngày 13/03/2019, của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đo đạc và bản đồ có hiệu lực từ ngày 01/05/2019. Trong đó, Nghị định quy định danh mục hoạt động đo đạc và bản đồ phải có giấy phép gồm: 1- Lập đề án, dự án, thiết kế kỹ thuật - dự toán nhiệm vụ đo đạc và bản đồ cơ bản, chuyên ngành; 2- Kiểm tra chất lượng sản phẩm đo đạc và bản đồ cơ bản, chuyên ngành; 3- Xây dựng mạng lưới tọa độ, độ cao, trọng lực; 4- Thu nhận dữ liệu ảnh hàng không; 5- Xử lý dữ liệu ảnh viễn thám; 6- Xây dựng cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia; 7- Đo đạc, thành lập bản đồ địa hình; 8- Đo đạc, thành lập bản đồ địa hình đáy biển; 9- Đo đạc, thành lập bản đồ địa giới hành chính; 10- Đo đạc, thành lập bản đồ địa chính; 11- Thành lập bản đồ hành chính; 12- Đo đạc, thành lập hải đồ; 13- Đo đạc, thành lập bản đồ công trình.
2. Quy định giải quyết tố cáo trong Quân đội
Nghị định số 28/2019/NĐ-CP ban hành ngày 20/03/2019 của Chính phủ quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Quân đội nhân dân có hiệu lực từ ngày 05/05/2019.
Nghị định này quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của quân nhân, công nhân và viên chức quốc phòng trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân; bảo vệ người tố cáo, người được bảo vệ; quản lý công tác giải quyết tố cáo trong Quân đội nhân dân.
3. Doanh nghiệp cho thuê lại lao động phải ký quỹ
Có hiệu lực từ ngày 05/05/2019, Nghị định 29/2019/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 20/03/2019, quy định chi tiết thi hành Khoản 3 Điều 54 Bộ luật lao động về việc cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động, việc ký quỹ và danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động.
Nghị định quy định cụ thể việc ký quỹ của doanh nghiệp cho thuê lại lao động. Theo đó, tiền ký quỹ được sử dụng để thanh toán tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bồi thường cho người lao động thuê lại trong trường hợp doanh nghiệp cho thuê vi phạm hợp đồng lao động với người lao động thuê lại hoặc gây thiệt hại cho người lao động do không bảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thuê lại.
4. Xác định thời điểm bố trí sử dụng nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước
Có hiệu lực từ ngày 15/05/2019, Nghị định số 30/2019/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành ngày 28/03/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, trong đó bổ sung Điều 57a xác định thời điểm bố trí sử dụng nhà ở cũ thuộc sở hữu nhà nước.
5. Quy định xử lý kỷ luật CBCCVC vi phạm Luật Tố cáo
Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019, quy định chi tiết một số điều và biện pháp tổ chức thi hành Luật Tố cáo có hiệu lực từ 28/05/2019, trong đó quy định xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm Luật Tố cáo.
Cụ thể, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo, người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật tố cáo thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật và quy định tại Nghị định này hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
6. Áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô tham gia giao thông
Theo Quyết định 16/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 28/03/2019 quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với xe ô tô tham gia giao thông và xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu có hiệu lực thi hành từ ngày 15/05/2019, ô tô lắp động cơ cháy cưỡng bức và ô tô lắp động cơ cháy do nén tham gia giao thông sản xuất trước năm 1999 được tiếp tục áp dụng Mức 1. Ô tô lắp động cơ cháy cưỡng bức và ô tô lắp động cơ cháy do nén tham gia giao thông sản xuất từ năm 1999 đến hết năm 2008 áp dụng Mức 2 từ ngày 1/1/2021.
Ô tô lắp động cơ cháy cưỡng bức và ô tô lắp động cơ cháy do nén tham gia giao thông sản xuất sau năm 2008 áp dụng Mức 2 từ ngày 1/1/2020. Đối với xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu, Thủ tướng Chính phủ quy định ô tô lắp động cơ cháy cưỡng bức, động cơ cháy do nén đã qua sử dụng nhập khẩu áp dụng Mức 4 kể từ ngày 15/5/2019.
Trường hợp ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu có thời điểm mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu theo Luật hải quan hoặc đã về đến cảng, cửa khẩu Việt Nam trước ngày 15/5/2019 thì được tiếp tục áp dụng quy định tại Quyết định số 249/2005/QĐ-TTg ngày 10/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ quy định lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
7. Ô tô dưới 16 chỗ ngồi chỉ được nhập qua 5 cửa khẩu cảng biển
Từ ngày 8/5/2019, quy định về cửa khẩu nhập khẩu ô tô chở người dưới 16 chỗ ngồi được thực hiện theo Thông tư 06/2019/TT-BCT do Bộ Công Thương mới ban hành. Thông tư 06 nêu rõ, ô tô chở người dưới 16 chỗ ngồi chỉ được nhập khẩu về Việt Nam qua các cửa khẩu cảng biển: Quảng Ninh (Cái Lân), Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu.
8. Quy tắc ứng xử trong trường học
Thông tư số 06/2019/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định Quy tắc ứng xử trong cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên có hiệu lực thi hành từ ngày 28/5/2019, trong đó, về ứng xử của giáo viên, Thông tư quy định ứng xử với người học, giáo viên phải có ngôn ngữ chuẩn mực, dễ hiểu, khen hoặc phê bình phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh; mẫu mực, bao dung, trách nhiệm, yêu thương; tôn trọng sự khác biệt, đối xử công bằng, tư vấn, lắng nghe và động viên, khích lệ người học. Đồng thời, tích cực phòng, chống bạo lực học đường, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện; không xúc phạm, gây tổn thương, vụ lợi; không trù dập, định kiến, bạo hành, xâm hại; không thờ ơ, né tránh hoặc che giấu các hành vi vi phạm của người học.
Với người học, Bộ Quy tắc ứng xử quy định khi ứng xử với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người học kính trọng, lễ phép, trung thực, chia sẻ, chấp hành các yêu cầu theo quy định; không bịa đặt thông tin; không xúc phạm tinh thần, danh dự, nhân phẩm, bạo lực.
Khi ứng xử với bạn bè, sử dụng ngôn ngữ đúng mực, thân thiện, trung thực, hợp tác, giúp đỡ và tôn trọng sự khác biệt; không nói tục, chửi bậy, miệt thị, xúc phạm, gây mất đoàn kết; không bịa đặt, lôi kéo; không phát tán thông tin để nói xấu, làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người học khác.
9. Quy định mới về sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
Thông tư 03/2019/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung Thông tư 32/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13/5/2019.
Thông tư 03 bổ sung quy định về các trường hợp được sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, đối với người không cư trú thực hiện theo quy định sau: Nhà đầu tư nước ngoài được đặt cọc, ký quỹ bằng ngoại tệ chuyển khoản khi tham gia đấu giá trong các trường hợp: 1- Mua cổ phần tại doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 2- Mua cổ phần, phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện thoái vốn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; 3- Mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác thực hiện thoái vốn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Anh Trương Văn Thành, Phó Bí thư Chi đoàn thôn Láng Me, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc làm kinh tế giỏi.
Không chỉ gương mẫu trong các phong trào, hoạt động Đoàn, anh còn tìm tòi, học hỏi những mô hình sản xuất hay để phát triển kinh tế, tăng thêm thu nhập cho gia đình. Trồng giá là một trong những mô hình mà anh Thành thực hiện bởi sự đơn giản và hiệu quả kinh tế mang lại.
Bên cạnh việc làm chính là nghề hớt tóc, anh Thành còn chăn nuôi bò. Để tăng thu nhập, anh tìm đến mô hình trồng giá như là một sự tình cờ. Tháng 6-2018, đọc trên mạng, thấy cách trồng giá đơn giản, không cầu kỳ, vốn đầu tư thấp, lại có thể làm song song với công việc hằng ngày, nên anh Thành đã quyết định thực hiện. Ngoài việc học kinh nghiệm trên mạng, anh còn đi tham quan mô hình thực tế của người quen. Theo anh Thành, các giai đoạn trồng giá rất gọn, chỉ cần bỏ đậu xanh vào trong thùng, trùm kín bao lại, canh độ ẩm phù hợp, tưới nước 4-5 giờ 1 lần, khoảng 5 ngày là có thể thu hoạch. Khó khăn nhất trong thực hiện mô hình này là thị trường tiêu thụ, vì giá là loại thực phẩm sử dụng trong ngày, đầu ra chưa ổn định, nên anh chưa mạnh dạn sản xuất số lượng lớn. Tổng số vốn đầu tư ban đầu của anh gần 30 triệu đồng, lúc đầu anh chỉ làm từ 10-20kg/ ngày, sau này tìm được đầu ra, anh tăng lên 50-60kg/ngày, với giá bán từ 8.000-10.000 đồng/kg, trừ chi phí anh có thêm thu nhập hơn 200.000 đồng /ngày.
Anh Trương Văn Thành chia sẻ: “Tôi nhận thấy có thể làm công việc nhà, tham gia hoạt động của địa phương vừa kết hợp với trồng giá nên rất tiện lợi, lại có thêm thu nhập mỗi ngày. Thời gian tới, nếu tìm được thị trường tiêu thụ rộng hơn, tôi sẽ nhân rộng mô hình này trong đoàn viên, thanh niên để họ có thêm thu nhập”.
Nguồn: Minh Khai, Báo Ninh Thuận
|