Sau 5 ngày đàm phán khẩn trương, các Bộ trưởng đã đạt được đồng thuận về tất cả các vấn đề tồn tại. Sáng ngày mùng 5 tháng 10 năm 2015 (theo giờ At-lan-ta), các Bộ trưởng đã ra tuyên bố chính thức về việc kết thúc đàm phán Hiệp định TPP.
I. HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VÀ QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành TPP
Khởi đầu, Hiệp định TPP có 4 nước tham gia là Bru-nây, Chi-lê, Niu Di-lân, Xinh-ga-po và vì vậy được gọi tắt là Hiệp định P4.
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng không phải Hiệp định P4 cũ mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ngay sau đó, các nước Ô-xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP.
Ngay từ khi TPP được hình thành, Việt Nam đã được các nước TPP mời tham gia. Việt Nam đã tham gia đàm phán ngay từ những ngày đầu nhưng chưa phải thành viên chính thức mà là thành viên liên kết. Sau 3 phiên tham dự với tư cách thành viên liên kết, Việt Nam chính thức tham gia TPP từ tháng 11 năm 2010.
Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là Ma-lai-xia, Mê-xi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên thành 12 vào giữa năm 2013. Sau đó, một số nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Cô-lôm-bia v..v cũng bày tỏ ý muốn tham gia nhưng các nước TPP thống nhất cần tập trung cho việc kết thúc đàm phán trước khi kết nạp thêm thành viên mới.
2. Mục tiêu của Hiệp định TPP
Các nước tham gia TPP đặt ra các mục tiêu sau:
Một là, tạo ra một mô hình mới về hội nhập và hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi hơn nữa cho dòng chảy thương mại và đầu tư và nếu có thể thì biến TPP thành hạt nhân để hình thành một khu vực thương mại tự do chung cho toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Hai là, đi đường ngắn nhất để đạt lợi ích cao nhất. Do khu vực thương mại tự do mà TPP tạo ra rất lớn (có tổng GDP hơn 28.000 tỷ USD, chiếm 40% tổng GDP và hơn 30% tổng thương mại toàn cầu) nên các dây chuyền cung ứng sẽ có động lực dịch chuyển về khu vực này, tạo ra lợi thế và lợi ích kinh tế to lớn cho tất cả các nước tham gia.
Cuối cùng, những nước chưa có quan hệ FTA với Hoa Kỳ như Nhật Bản, Niu Di-lân, Ma-lai-xia và Việt Nam đều mong muốn thông qua TPP để thiết lập FTA với Hoa Kỳ và tiếp cận thị trường rộng lớn này.
3. Nội dung của Hiệp định
Hiệp định TPP bao gồm 30 Chương với các chủ đề cụ thể như sau:
1. Lời nói đầu
2. Các vấn đề pháp lý và thể chế thực thi Hiệp định
3. Thương mại hàng hóa
4. Thương mại dệt may
5. Quy tắc xuất xứ
6. Các quy định về kiểm tra, hợp tác hải quan
7. Các quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
8. Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS)
9. Phòng vệ thương mại
10. Đầu tư
11. Cung cấp dịch vụ qua biên giới
12. Dịch vụ tài chính
13. Các quy định về nhập cảnh tạm thời của thể nhân
14. Dịch vụ viễn thông
15. Thương mại điện tử
16. Mua sắm của các cơ quan Chính phủ
17. Chính sách cạnh tranh
18. Doanh nghiệp Nhà nước
19. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
20. Thương mại và lao động
21. Thương mại và môi trường
22. Hợp tác
23. Tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng
24. Các chính sách thúc đẩy phát triển
25. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
26. Gắn kết môi trường chính sách
27. Minh bạch hóa và chống tham nhũng
28. Giải quyết tranh chấp
29. Các điều khoản ngoại lệ
30. Điều khoản cuối cùng
Xin tham khảo bản tóm tắt nội dung Hiệp định đã được đăng tải trên website của Bộ Công Thương www.moit.gov.vn
4. Vị trí của Việt Nam trong TPP
Các nước đánh giá cao việc Việt Nam tham gia đàm phán TPP vì các lý do sau đây:
Một là, trong những năm Đổi mới vừa qua, Việt Nam đã chứng tỏ là một quốc gia năng động, nhất quán thi hành đường lối Đổi mới; nghiêm túc trong việc thực thi cam kết quốc tế; có môi trường chính trị ổn định và đang có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực; là một đối tác quan trọng trong hiện tại và tương lai, có thể giúp tăng ảnh hưởng của TPP.
Hai là, Việt Nam có quy mô dân số đáng kể, nền kinh tế phát triển năng động, hứa hẹn trở thành thị trường có sức mua lớn, là điểm đến được doanh nghiệp các nước, nhất là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, hết sức quan tâm.
Ba là, Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Việc Việt Nam có thể tham gia thành công vào TPP sẽ là bằng chứng thuyết phục về việc Hiệp định TPP thực sự quan tâm đến các nước đang phát triển (thông qua các biện pháp đa dạng để hỗ trợ một nước đang phát triển thực thi các tiêu chuẩn cao của Hiệp định). Đây là yếu tố quan trọng, giúp thu hút các nước có trình độ phát triển kinh tế chưa cao cùng tham gia vào TPP để TPP có thể mở rộng trong tương lai.
5. TPP trong mối quan hệ với các FTA khác của ta
Trước năm 2010, phần lớn các hiệp định FTA mà Việt Nam tham gia đều trong khuôn khổ ASEAN với các nước đối tác và chủ yếu tập trung ở khu vực Đông Á. Sự gần gũi về vị trí địa lý kết hợp với quan hệ thương mại tự do đã khiến trên 60% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam gắn với khu vực Đông Á.
Với các nước có trình độ phát triển cao và cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu có tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa của Việt Nam (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân), các FTA về cơ bản đem lại hiệu ứng tăng trưởng xuất khẩu như mong đợi. Với những nước có cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu cạnh tranh với Việt Nam (như Trung Quốc, các nước ASEAN, Ấn Độ), hiệu ứng tăng trưởng xuất khẩu và giảm nhập siêu chưa được như mong muốn.
Xuất phát từ đây, việc thúc đẩy đàm phán, ký kết FTA với một số nước ở các khu vực khác có thị trường tiêu thụ lớn và cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa của Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng giúp Việt Nam tạo dựng được cơ cấu thị trường cân đối, ổn định lâu dài, phục vụ cho công cuộc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tầm nhìn đó, từ năm 2010, Việt Nam đã đồng thời khởi động đàm phán TPP và đàm phán FTA với Liên minh Châu Âu, Liên minh kinh tế Á - Âu (gồm Nga, Bê-la-rus, Ka-zac-xtan, Ác-mê-nia và Ki-rơ-gi-xtan), Hàn Quốc và Khối các nước EFTA (Nauy, Thụy Sỹ, Ai-xơ-len, Lich-ten-xtai).
II. TÌNH HÌNH ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH TPP
Kể từ khi chính thức khởi động vào tháng 3 năm 2010, đàm phán TPP đã trải qua hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp Bộ trưởng. Lãnh đạo các nước TPP cũng đã nhiều lần gặp nhau để thảo luận các biện pháp thúc đẩy đàm phán. Có thể nói TPP là FTA có tần suất đàm phán và cấp tham gia đàm phán cao nhất trong số các FTA mà Việt Nam đã tham gia.
Trong những năm qua, các nước đã nhiều lần đặt ra mục tiêu kết thúc đàm phán. Tuy nhiên, một phần do nội dung đàm phán quá phức tạp, phần khác do tình hình chính trị nội bộ ở một số nước chưa hoàn toàn thuận lợi nên chưa thể kết thúc.
Đến giữa năm 2015, cơ hội để kết thúc đàm phán đã xuất hiện rõ nét hơn. Tại Hoa Kỳ, sau nhiều nỗ lực của Tổng thống Ô-ba-ma và các nghị sĩ ủng hộ TPP, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Thẩm quyền đàm phán nhanh (TPA) dành cho Tổng thống. Với TPA, Quốc hội Hoa Kỳ sẽ không có quyền sửa đổi các điều khoản của TPP nữa mà chỉ có thể phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Hiệp định. Đây là điều kiện quan trọng giúp các nước có thể kết thúc đàm phán Hiệp định mà không lo ngại Quốc hội Hoa Kỳ sẽ yêu cầu đàm phán lại.
Từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 7 năm 2015 tại Ha-oai, Hoa Kỳ, các nước TPP đã tổ chức Hội nghị Bộ trưởng với mục tiêu kết thúc toàn diện đàm phán. Tại Hội nghị này, các nước đã đạt được thỏa thuận về gần như tất cả các vấn đề, kể cả các lĩnh vực khó như đầu tư, dịch vụ tài chính, thương mại và môi trường, doanh nghiệp nhà nước v..v. Tuy nhiên, các Bộ trưởng vẫn chưa thể kết thúc đàm phán, chủ yếu vì 3 nội dung chưa đạt được đồng thuận. Đó là mở cửa thị trường ô tô, mở cửa thị trường sữa và bảo hộ độc quyền dữ liệu thử nghiệm cho thuốc sinh học (sinh dược). Tới Hội nghị Bộ trưởng tại At-lan-ta, các nội dung này và các vấn đề tồn đọng khác đã được giải quyết, các nước chính thức kết thúc đàm phán Hiệp định TPP.
III. CÁC NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO ĐÀM PHÁN
Trong quá trình đàm phán, các Bộ, ngành và Đoàn đàm phán đã bám sát các nguyên tắc chỉ đạo sau:
- Quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
- Tính toán kỹ giữa mặt thuận lợi và không thuận lợi, thời cơ và thách thức, năng lực trong nước và quốc tế trong đàm phán để đảm bảo nếu ký kết sẽ đem lại lợi ích quốc gia cao nhất; tạo cơ hội mới cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Phát huy lợi thế và vai trò nước ta với tư cách là một trong những thành viên tham gia Hiệp định TPP ngay từ đầu; đóng góp tích cực để định hình khung khổ và nội dung; vận động các nước dành linh hoạt cho Việt Nam về thời hạn thực thi và ngành hàng cam kết, do Việt Nam là nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp nhất trong các nước TPP.
- Coi trọng tham vấn nội dung đàm phán với các bên liên quan: các nội dung đàm phán mặc dù không được công khai (theo thỏa thuận của các nước TPP) nhưng thông qua các hình thức thích hợp, đều được tham khảo ý kiến của đông đảo doanh nghiệp có lợi ích liên quan trực tiếp (thông qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội), một số Ủy ban của Quốc hội, đại diện một số tổ chức chính trị - xã hội, các nhà nghiên cứu và các chuyên gia độc lập. Quá trình xây dựng phương án và quá trình đàm phán đã có sự tham gia trực tiếp của tất cả các cơ quan liên quan để bảo đảm phương án đàm phán phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, tạo thuận lợi cho quá trình thực thi cam kết sau này.
Với các kết quả đạt được tại At-lan-ta, có thể khẳng định các nguyên tắc chỉ đạo trên đều đã được thực hiện nghiêm túc:
Thứ nhất, ta đã kiên trì đàm phán để đảm bảo các lợi ích cốt lõi. Với mức độ mở cửa thị trường mà các nước đã cam kết, dự kiến ta sẽ có khả năng tăng đáng kể xuất khẩu và GDP, tạo ra nhiều việc làm khi Hiệp định được đưa vào thực thi.
Thứ hai, các nội dung cam kết đều phù hợp với định hướng hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước và quy định của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thí dụ như quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).
Thứ ba, các nước đã dành cho Việt Nam sự linh hoạt đáng kể trong việc thực thi tiêu chuẩn chung của TPP. Việt Nam là nước được dành nhiều linh hoạt nhất trong việc thực thi các cam kết khó trong TPP. Đồng thời, một số nước cũng đưa ra các cam kết cụ thể về hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong quá trình thực thi cam kết sau này.
IV. CÁC NỘI DUNG ĐÀM PHÁN QUAN TRỌNG
1. Cắt giảm thuế nhập khẩu
Nguyên tắc chung của TPP là đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với tất cả các dòng thuế. Với một số ít dòng thuế nhạy cảm nhất, có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc hình thức giảm thuế đáng kể, với điều kiện là phải được cả 11 nước còn lại chấp nhận.
Về dệt may, để hưởng thuế suất ưu đãi của Hiệp định, sẽ phải đáp ứng quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”. Quy tắc này về dài hạn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp dệt, giúp nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm may xuất khẩu và giúp ngành dệt may phát triển bền vững hơn. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu được hưởng ưu đãi ngay của các doanh nghiệp tại các nước chưa mạnh về công nghiệp dệt, Hiệp định TPP có một danh mục “nguồn cung thiếu hụt”. Theo danh mục này, các doanh nghiệp sẽ có quyền nhập khẩu một số chủng loại vải, sợi từ nước thứ ba (ngoài TPP) để làm ra sản phẩm may mà vẫn được hưởng ưu đãi. Ngoài ra, có một số cơ chế linh hoạt khác để ngành dệt may có thể được hưởng ưu đãi nhiều hơn ngay khi Hiệp định có hiệu lực mà không quá phụ thuộc vào quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”.
2. Mở cửa dịch vụ và đầu tư
Trong lĩnh vực dịch vụ - đầu tư, nghĩa vụ chính là không phân biệt đối xử, bao gồm (i) không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên với nhau (dành đãi ngộ tối huệ quốc) và (ii) không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư - cung cấp dịch vụ trong nước với nhà đầu tư - cung cấp dịch vụ nước ngoài (dành đãi ngộ quốc gia). Nước nào có nhu cầu phân biệt đối xử thì bảo lưu biện pháp phân biệt đối xử đó trong Phụ lục kèm theo Hiệp định.
Mọi biện pháp quản lý, nếu không có yếu tố phân biệt đối xử, đều được phép duy trì mà không cần phải bảo lưu trong Hiệp định.
Với mục tiêu thu hút mạnh đầu tư vào khu vực TPP (chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu), các nước đặt ra kỳ vọng rất cao cho lĩnh vực dịch vụ - đầu tư.
Các cam kết về dịch vụ và đầu tư của Việt Nam về cơ bản là tương đương với mức độ mở cửa hiện hành.
3. Mua sắm của các cơ quan Chính phủ
Các nước TPP thống nhất đưa ra một bộ quy tắc khá toàn diện về đấu thầu mua sắm của các cơ quan Chính phủ. Các quy tắc này không áp dụng với các gói thầu vì mục đích an ninh-quốc phòng, các gói thầu có giá trị dưới một mức nhất định và các trường hợp khác mà ta bảo lưu trong đàm phán. Các quy tắc này chủ yếu là:
- Về cơ bản sẽ sử dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi để lựa chọn nhà thầu từ các nước TPP;
- Không áp dụng các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên đối với nhà thầu cũng như hàng hóa và dịch vụ trong nước, trừ các trường hợp được bảo lưu;
- Minh bạch thông tin và thủ tục tại tất cả các khâu;
- Có quy định để bảo đảm liêm chính trong quá trình đấu thầu và xây dựng quy trình xem xét khiếu nại của nhà thầu.
TPP không yêu cầu mở cửa thị trường mua sắm của chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) và cũng không yêu cầu mở cửa thị trường mua sắm phục vụ an ninh – quốc phòng.
Kết quả đàm phán mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực mua sắm của các cơ quan Chính phủ là cân bằng và phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam.
4. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Các nghĩa vụ của Hiệp định được áp dụng đối với các DNNN mà tại đó Nhà nước nắm giữ hơn 50% vốn điều lệ. Tuy nhiên, chỉ khi các DNNN này có doanh thu vượt quá một ngưỡng nhất định thì mới chịu sự điều chỉnh của Hiệp định.
Việt Nam bảo lưu loại trừ tất cả các doanh nghiệp có hoạt động liên quan tới quốc phòng - an ninh. Với các DNNN khác, Việt Nam chấp nhận cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Nhà nước sẽ vẫn hỗ trợ các DNNN nhưng mức hỗ trợ sẽ không tới mức gây bất bình đẳng lớn và ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại, đầu tư giữa các nước TPP. Việt Nam cũng đồng ý minh bạch thông tin về DNNN khi có yêu cầu, trừ các thông tin ảnh hưởng tới quốc phòng - an ninh hoặc thuộc phạm vi bí mật kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT)
TPP hướng đến các tiêu chuẩn cao về bảo hộ quyền SHTT, đặc biệt là với dược phẩm. Đồng thời, các nước cũng cần có cơ chế thực thi hiệu quả việc bảo hộ quyền SHTT trên lãnh thổ nước mình, kể cả tại biên giới và trong môi trường Internet. Đặc biệt, phải có quy định cho phép xử lý hình sự các vụ việc xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại lớn cho người sở hữu quyền SHTT. Cách tiếp cận này đi xa hơn cách tiếp cận trong WTO (chỉ xử lý hình sự khi xâm phạm ở quy mô thương mại và thu lợi bất chính).
TPP cũng yêu cầu các nước cho phép khả năng xử lý hình sự một số hình thức xâm phạm quyền SHTT mới xuất hiện như thiết kế các phần mềm phá mã điện tử để phục vụ sao chép lậu, câu trộm để phát tán tín hiệu truyền hình cáp v..v.
Việt Nam đồng ý với các tiêu chuẩn của TPP nhưng sẽ thực hiện cam kết theo lộ trình, phù hợp với trình độ phát triển và năng lực thực thi của Việt Nam.
6. Thuế xuất khẩu
Hiệp định TPP yêu cầu các nước nỗ lực xóa bỏ thuế xuất khẩu vì coi đây là một hình thức trợ cấp gián tiếp cho doanh nghiệp trong nước (được mua nguyên liệu với giá rẻ). Việt Nam đồng ý với nỗ lực này nhưng phải theo lộ trình hợp lý, đồng thời bảo lưu quyền áp dụng thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có ý nghĩa quan trọng đối với thu ngân sách như dầu thô và các loại than đá ta có sản xuất trong nước.
7. Thương mại và môi trường
TPP đưa ra các yêu cầu sau:
- Cam kết bảo vệ môi trường theo các quy định của các điều ước quốc tế đã hoặc sẽ tham gia, có chế tài trong trường hợp vi phạm.
- Không áp dụng các hình thức trợ cấp nghề cá gây ảnh hưởng tiêu cực đến các loài thủy sản đang bị đánh bắt quá mức, nhưng có lộ trình để rà soát lại chính sách và điều chỉnh chính sách, nếu cần.
- Theo đúng các quy định trong nước, đưa ra hình thức phù hợp để hợp tác xử lý vi phạm pháp luật về môi trường ở nước ngoài.
Cùng với quá trình tham gia các diễn đàn về môi trường, Việt Nam đã có rất nhiều cải cách trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, các cam kết trong lĩnh vực môi trường về cơ bản là phù hợp với hệ thống pháp luật cũng như điều kiện, hoàn cảnh và năng lực thực thi của Việt Nam.
8. Thương mại điện tử (TMĐT)
TPP đặt ra các yêu cầu chính sau:
- Không phân biệt đối xử sản phẩm số và không áp thuế xuất nhập khẩu/phí nội địa đối với sản phẩm số;
- Quyền truy cập, lưu chuyển thông tin trên Internet;
- Nếu không phải vì các mục tiêu công cộng chính đáng thì không yêu cầu đặt trang thiết bị (máy chủ) tại nước sở tại như là điều kiện để cấp phép đầu tư hay cung cấp dịch vụ .
Mọi biện pháp quản lý Internet nhằm bảo đảm an ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục vẫn được phép áp dụng.
9. Minh bạch hóa và chống tham nhũng
Các nước TPP đưa ra nhiều nguyên tắc về tăng cường minh bạch hóa như đăng tải mọi dự thảo pháp luật trên một trang thông tin điện tử duy nhất, cho phép khu vực doanh nghiệp tham gia ý kiến trong quá trình hoạch định chính sách, cho phép các đối tượng có quan tâm được đóng góp ý kiến vào các nội dung được thảo luận ở các Ủy ban của TPP trong tương lai v..v.
Ngoài ra, các nước đồng ý đưa vào Chương Minh bạch hóa một số nguyên tắc của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC) mà hầu hết các thành viên TPP (ngoại trừ Bru-nây) đã tham gia.
10. Các nội dung khác
Cũng như các hiệp định FTA khác, Hiệp định TPP còn có nhiều quy định liên quan đến thương mại và đầu tư như: quy định về các hàng rào kỹ thuật trong thương mại, các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm, các quy định về hải quan và tạo thuận lợi cho thương mại, các quy định về môi trường đầu tư, về bảo hộ đầu tư (trong đó có việc cho phép nhà đầu tư được kiện chính phủ trong một số trường hợp đặc biệt như khi chính phủ tước đoạt tài sản của nhà đầu tư) v..v. Tuy nhiên, quy định trong những lĩnh vực này của TPP là tương đồng với các hiệp định về thương mại - đầu tư khác mà ta đã ký hoặc với các quy định hiện hành của pháp luật.
V. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
1. Về các mặt thuận lợi và cơ hội
Tham gia TPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên sẽ giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế, giúp Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
Về mặt kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế độc lập, trong điều kiện các yếu tố khác đều thuận lợi, TPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025. Theo các nghiên cứu này, Việt Nam có thể là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 nước tham gia TPP.
Đối với xuất khẩu, việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ca-na-đa giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của Việt Nam sẽ tạo ra “cú hích” lớn. Riêng ngành dệt may, kim ngạch có thể tăng đáng kể. Theo tính toán, cứ 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm các loại. Như vậy, nếu kim ngạch dệt may tăng, có thể tạo ra nhiều việc làm mới. Ngoài ra, với quy mô xuất khẩu đủ lớn, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm và sản xuất nguyên phụ liệu. Đây là mặt tích cực của quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, giúp Việt Nam tăng giá trị nội địa cho hàng may xuất khẩu và giúp ngành may phát triển bền vững trước các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
Tương tự dệt may, các mặt hàng giày dép của Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tăng đáng kể xuất khẩu. Với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản, cơ hội tăng xuất khẩu cũng rất lớn.
Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam và các nước có được các cơ hội mới từ chuỗi cung ứng mới, được hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Các nước TPP chiếm tới 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu, lại bao gồm các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, chắc chắn sẽ mở ra rất nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng mới hình thành. Một số tập đoàn, công ty lớn trên thế giới đã cân nhắc đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu biến Việt Nam trở thành một trong những cứ điểm quan trọng trong chuỗi sản xuất của họ. Tham gia TPP sẽ giúp xu hướng này phát triển mạnh hơn, là điều kiện quan trọng để nước ta bước sang giai đoạn phát triển các ngành mới, có hàm lượng công nghệ cao hơn.
Cam kết trong TPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến sẽ có tác dụng tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng khi Hiệp định TPP có hiệu lực. Ngoài ra, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ của ta cũng dễ tiếp cận thị trường của các nước tham gia TPP hơn, tuy tác động này không lớn do khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ta ở thị trường nước ngoài còn thấp.
Các doanh nghiệp của ta cũng sẽ có điều kiện tham gia vào thị trường mua sắm công của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ca-na-đa v..v. Theo số liệu của Hoa Kỳ, chỉ tính riêng mua sắm công các loại hàng hóa, vật dụng văn phòng thông thường của các cơ quan chính quyền liên bang Hoa Kỳ hàng năm đã vào khoảng 10-12 tỷ USD. Đây cũng là một kênh tiêu thụ hấp dẫn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Cũng như tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia TPP, một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường, một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của ta, đồng thời giúp ta có thêm cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, việc hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ quyền SHTT sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao, thí dụ như sản xuất dược phẩm, trong đó có thuốc sinh học (đặc biệt là với vắc-xin và một số sản phẩm ta có bước phát triển mạnh trong các năm qua).
Về mặt xã hội, tham gia TPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng trưởng. Hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế cũng giúp ta có thêm nguồn lực để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với ta phần lớn là không cạnh tranh trực tiếp, nên nếu có một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, ta có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy sinh do tham gia TPP. Đặc biệt, do Hiệp định TPP bao gồm cả các cam kết về bảo vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp ta tăng trưởng bền vững hơn.
Cuối cùng, về thể chế, tương tự như WTO, Hiệp định TPP với các tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ giúp ta tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; thúc đẩy hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương và phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
2. Về các thách thức và giải pháp
Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng luôn đi kèm với các rủi ro và thách thức. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta trong 30 năm đổi mới, hội nhập vừa qua cho thấy mặt thuận lợi là mặt cơ bản, chủ yếu, rủi ro và thách thức là có thể kiểm soát được nếu có sự thống nhất về nhận thức rủi ro và hành động để phòng chống rủi ro, vượt qua thách thức.
2.1- Thách thức về kinh tế
2.1.1- Về thương mại hàng hóa
Với một số chủng loại nông sản mà Hoa Kỳ và một số nước khác trong TPP (Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân, Chi-lê) có thế mạnh, sức ép cạnh tranh là khá lớn khi thuế được đưa về 0%, trong đó nổi bật là thịt lợn, thịt gà. Đây là những mặt hàng ta đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Một số nông sản khác cũng sẽ gặp khó khăn nhưng ở mức độ nhẹ hơn vì những sản phẩm này ta vẫn phải nhập khẩu với số lượng lớn, trong nước dù sao cũng đã quen với cạnh tranh, đó là sản phẩm sữa, đậu tương, ngô và nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc.
Một số sản phẩm công nghiệp mà bạn hàng TPP có thế mạnh cũng có thể gây khó khăn cho sản xuất của ta, thí dụ như giấy, thép, ô tô. Tuy nhiên, có cơ sở để cho rằng sức ép cạnh tranh sẽ không lớn vì sản phẩm của ta hướng đến phân khúc thị trường trung bình trong khi sản phẩm của các nước TPP thường hướng đến phân khúc thị trường cao cấp.
Một số sản phẩm các nước TPP có sản xuất, thuế nhập khẩu của ta đang được duy trì ở mức cao, nhưng việc hạ thuế về 0% chủ yếu sẽ gây giảm thu thuế nhập khẩu là chính, không gây ra sức ép cạnh tranh, bao gồm: bánh kẹo, chất tẩy rửa, đồ trang sức, sản phẩm kim loại (chủ yếu là đồ bếp), điều hòa không khí, đồ nội thất, xe mô-tô phân khối lớn, rượu, thuốc lá.
Để vượt qua thách thức này, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp - chăn nuôi, ta sẽ phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng cơ cấu lại ngành nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ ... để sản phẩm nông nghiệp của ta đủ sức đứng vững trên sân nhà. Với những chương trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp như việc triển khai cánh đồng mẫu lớn ta cần sớm rút kinh nghiệm để nhân rộng và phát triển hợp lý trong tương lại. Theo kết quả đàm phán, việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông nghiệp cũng sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ cấu lại.
Với các sản phẩm khác, giải pháp chủ yếu cũng là kéo dãn lộ trình giảm thuế để có thời gian tái cơ cấu sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư quy mô lớn và áp dụng công nghệ cao để nâng dần sức cạnh tranh. Theo hướng đó, lộ trình cần được sử dụng một cách chủ động, hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại vào lộ trình dẫn đến chậm đổi mới và từ đó là bị động, lúng túng khi thách thức đến. Đặc biệt, cần đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi doanh nghiệp đều nhận thức được cơ hội và thách thức của TPP nói riêng cũng như tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các FTA thế hệ mới nói chung.
2.1.2- Về thương mại dịch vụ và đầu tư
Mở cửa thị trường dịch vụ - đầu tư sẽ không ảnh hưởng tới quyền chủ động của Nhà nước trong quản lý, cụ thể là không ảnh hưởng tới quyền áp dụng các biện pháp quản lý không mang tính phân biệt đối xử, theo các tiêu chí minh bạch, áp dụng chung. Nói cách khác, mở cửa theo TPP chỉ làm tăng cạnh tranh thương mại, không ảnh hưởng tới quyền quản lý của Nhà nước nhằm đáp ứng các mục tiêu công cộng, chính đáng và vì vậy, không gây ra tác động bất lợi cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền riêng tư của công dân cũng như thuần phong mỹ tục trong xã hội.
Với các lĩnh vực còn lại, kết quả đàm phán dự kiến sẽ không gây xáo trộn lớn vì đa phần tương đương với độ mở hiện hành.
2.2- Thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế
Các tiêu chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ đặt ra những thách thức lớn cho bộ máy quản lý. Tuy nhiên, đây cũng là những tiêu chuẩn mà chúng ta đang hướng đến để xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN, thực sự của dân, do dân và vì dân, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, kỷ luật, kỷ cương. Chính phủ sẽ chủ động xây dựng chương trình để thực hiện các tiêu chuẩn cao này của TPP.
Để thực thi cam kết trong TPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường … Tuy nhiên, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc và nỗ lực cao độ, ta có thể thực hiện thành công khối lượng công việc này, nhất là khi ta được quyền thực hiện theo lộ trình.
2.3- Thách thức về xã hội
Cạnh tranh tăng lên khi tham gia TPP có thể làm cho một số doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, do phần lớn các nền kinh tế trong TPP không cạnh tranh trực tiếp với ta, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.
Đồng thời, với cơ hội mới có được, ta sẽ có điều kiện để tạo công ăn việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành ta thực sự có lợi thế cạnh tranh.
2.4- Thách thức về thu ngân sách
Do tỷ trọng thu ngân sách từ thuế nhập khẩu đang giảm dần qua các năm, việc xóa bỏ thuế nhập khẩu lại được thực hiện theo lộ trình, nên về cơ bản sẽ không gây tác động lớn và đột ngột. Bên cạnh đó, khi xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, thu từ thuế nhập khẩu có thể giảm nhưng bù lại, số thu từ các sắc thuế khác sẽ tăng lên do sản xuất, kinh doanh phát triển, không những đủ để bù đắp số thu mất đi từ thuế nhập khẩu mà còn bổ sung thêm cho ngân sách nhà nước. Việc tính toán tác động của Hiệp định TPP lên nguồn thu từ hàng nhập khẩu, vì vậy, cần được nhìn theo cả 2 hướng. Thực tiễn cho thấy việc giảm thuế nhập khẩu theo cam kết WTO và theo 8 FTA đã có hiệu lực không ảnh hưởng tiêu cực tới thu ngân sách. Tổng thu từ hàng nhập khẩu vẫn tăng đều hàng năm kể từ năm 2006.
Với thuế xuất khẩu, do ta giữ lại thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng quan trọng nhất như dầu thô, than đá, một số loại khoáng sản kim loại nên dự kiến tác động đến thu ngân sách sẽ không đáng kể.
VI. CÁC BƯỚC TIẾP THEO
Sau khi kết thúc đàm phán, Việt Nam sẽ cùng các nước TPP thực hiện các bước tiếp theo sau đây:
- Rà soát pháp lý để bảo đảm lời văn và các biểu cam kết thể hiện đúng kết quả đàm phán. Đây là công việc phức tạp. Để làm nhanh, đòi hỏi nỗ lực cao độ của tất cả các đoàn đàm phán.
- Dịch thuật và công bố rộng rãi nội dung Hiệp định, cố gắng hoàn thành trong nửa đầu tháng 10 năm 2015, trên cơ sở hoàn tất sớm rà soát pháp lý.
- Dành thời gian thỏa đáng để các đại biểu Quốc hội, người dân và các doanh nghiệp nghiên cứu nội dung Hiệp định.
- Ký kết Hiệp định
- Thực hiện quy trình thông qua Hiệp định theo đúng quy định của pháp luật từng nước. Thời gian mất từ 18 tháng tới 2 năm./.
|